Luật Bảo hiểm tiền gửi vừa được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ 1/5/2026, bổ sung nhiều quy định về chi trả và tăng vai trò giám sát hệ thống ngân hàng.

Ngày 10/12, với 448/449 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (chiếm 94,93% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội đã thông qua Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/2026.
Mục đích chính của Luật là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
Theo đó, bảo hiểm tiền gửi là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Người được bảo hiểm tiền gửi là cá nhân có tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi và các hình thức khác được quy định.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi. Phí bảo hiểm tiền gửi được tính trên cơ sở số dư tiền gửi bình quân của tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Theo đó, bảo hiểm tiền gửi sẽ chi trả trong 3 trường hợp. Thứ nhất, khi Ngân hàng Nhà nước duyệt phương án phá sản của tổ chức tín dụng hoặc ngân hàng nước ngoài mất khả năng chi trả tiền gửi - như quy định tại luật trước đây.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước đình chỉ hoạt động nhận tiền gửi của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt và nhà băng lỗ lũy kế hơn 100% vốn điều lệ. Trường hợp thứ ba là cơ quan quản lý yêu cầu trả tiền nhằm đảm bảo an toàn hệ thống, trật tự, an toàn xã hội.
Trước khi Quốc hội thông qua dự án Luật, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Theo Thống đốc, tiếp tục nghiên cứu các quy định để tăng cường vai trò quản lý, giám sát của Ngân hàng Nhà nước trong việc chi trả sớm bảo hiểm tiền gửi, Luật Bảo hiểm tiền gửi đã quy định nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm tại Điều 21 và Điều 36 nhằm tránh gây tác động tiêu cực về mặt tâm lý đối với người gửi tiền, có nguy cơ hiệu ứng lan truyền gây rút tiền hàng loạt, khiến những tổ chức tín dụng đang có cơ hội phục hồi bị ảnh hưởng làm cho quá trình phục hồi gặp khó khăn.
Quốc hội giao Thống đốc quy định theo từng thời kỳ về hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi (số tiền tối đa tổ chức bảo hiểm tiền gửi trả cho khách hàng, gồm gốc và lãi). Hiện nay, mức chi trả là 125 triệu đồng. Thảo luận ở hội trường trước đó, một số đại biểu đề nghị tăng mức này lên gấp đôi.
Tại luật vừa được thông qua, bảo hiểm tiền gửi cũng tham gia xử lý tổ chức tín dụng được can thiệp sớm, kiểm soát đặc biệt, cũng như xử lý sự cố, khủng hoảng trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Trong đó, đơn vị bảo hiểm được đánh giá tính khả thi phương án phục hồi, sắp xếp, hợp nhất, chuyển nhượng vốn góp hoặc xây dựng phương án phá sản của tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt.

Luật Bảo hiểm tiền gửi cũng quy định tổ chức bảo hiểm tiền gửi được vay đặc biệt với lãi suất 0%, không có tài sản bảo đảm từ Ngân hàng Nhà nước trong trường hợp quy định tại Điều 21 và khi số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ không đủ để trả tiền bảo hiểm.
Số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ không đủ để trả tiền bảo hiểm được xác định khi tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã sử dụng hết số tiền trong quỹ dự phòng nghiệp vụ mà vẫn không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm. Việc bán giấy tờ có giá chưa đến hạn, rút các khoản tiền gửi chưa đến hạn phải bảo đảm nguyên tắc bảo toàn vốn trong hoạt động đầu tư.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi xây dựng phương án tăng phí bảo hiểm tiền gửi để bù đắp phần vay đặc biệt; sử dụng tiền trả nợ vay đặc biệt của tổ chức tín dụng, nguồn thu từ bán giấy tờ có giá do tổ chức bảo hiểm tiền gửi nắm giữ, thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng vay đặc biệt, phí bảo hiểm tiền gửi để ưu tiên hoàn trả nợ vay đặc biệt cho Ngân hàng Nhà nước.
Nguyên nhân là do việc xác định rõ trường hợp “sự cố, khủng hoảng” là khó khả thi vì đây là các trường hợp không lường trước được gắn với các tình huống phát sinh trên thực tế như những sự cố phát sinh từ những biến động của tình hình thế giới hoặc những sự cố khủng hoảng có tác động đến hoạt động kinh tế xã hội nói chung, hoạt động ngân hàng nói riêng như đại dịch Covid-19 trong thời gian vừa qua...
Do đó, Điều 39 dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định thẩm quyền Chính phủ quyết định các biện pháp khác để tổ chức bảo hiểm tiền gửi tham gia xử lý sự cố, khủng hoảng, tạo cơ sở để Chính phủ có thể xem xét quyết định áp dụng ngay các biện pháp huy động từ nguồn lực của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi để ngăn chặn kịp thời sự cố, khủng hoảng, đảm bảo an ninh, an toàn.
Mai Anh - nguoiquansat.vn
Theo Kiến thức Đầu tư
Bình luận
0 Bình luận