Một thị trường hơn 2.600 tỷ USD, nhiều mặt hàng được hưởng thuế suất 0%, vậy mà chúng ta vẫn chưa khai thác đúng mức”, lãnh đạo Bộ Công thương nhận định.
Tại Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Thương mại Việt Nam - EU 2025 diễn ra chiều 17/10, ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương), nhận định giai đoạn 2020–2024 là “thời gian vàng” của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA). Tuy nhiên, ông cho rằng Việt Nam chưa tận dụng hết lợi thế mà hiệp định mang lại, khi giá trị xuất khẩu có tăng nhưng thị phần gần như không đổi.
Theo số liệu Bộ Công Thương, kim ngạch hai chiều giữa Việt Nam và EU đã tăng từ hơn 50 tỷ USD năm 2020 lên 65 tỷ USD vào cuối 2024, tương đương mức tăng khoảng 25%. Các nhóm hàng chủ lực như thủy sản, dệt may, da giày đều tăng trưởng tốt, giúp Việt Nam nhiều năm liền duy trì xuất siêu, với quy mô gấp đôi lượng nhập khẩu từ khối này.
Tuy nhiên, ông Ngô Chung Khanh nhấn mạnh, “bức tranh không hoàn toàn sáng” nếu nhìn vào cơ cấu thị phần: Hàng Việt tại EU chỉ chiếm 1,4% trong tổng nhập khẩu 2.640 tỷ USD mỗi năm của khối này. Thủy sản Việt Nam chiếm khoảng 4%; Nông sản và hàng công nghiệp khác chỉ đạt 2–3%. Trong khi đó, EU lại chỉ chiếm hơn 4% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
“Một thị trường hơn 2.600 tỷ USD, nhiều mặt hàng được hưởng thuế suất 0%, vậy mà chúng ta vẫn chưa khai thác đúng mức”, ông Khanh nói.
Ông cho biết, có những sản phẩm nếu không có EVFTA sẽ chịu thuế 15–20%, riêng mặt hàng thủy sản có loại lên tới 13%, nhưng doanh nghiệp lại tìm cơ hội ở nơi khác. Riêng ngành thủy sản của EU đạt quy mô 31 tỷ USD, trong khi Việt Nam mới chỉ xuất khẩu được khoảng 1 tỷ USD/năm, một con số rất nhỏ so với tiềm năng và ưu đãi thuế đang có.

'Thời gian vàng của EVFTA đang dần khép lại'
“Thời gian vàng của EVFTA đang dần khép lại”, ông Khanh cảnh báo, khi EU đang ký thêm nhiều FTA với các nước trong khu vực.
Hiệp định EU – Indonesia đã kết thúc đàm phán, dự kiến có hiệu lực vào tháng 9/2027. Các FTA với Malaysia và Thái Lan cũng đang tiến triển tích cực. Còn hiệp định với khối Mercosur (Nam Mỹ) sau hơn 20 năm đình trệ, nay cũng được tái khởi động.
“Lợi thế thuế của Việt Nam đang thu hẹp nhanh. Trong thương mại, chênh 1% thuế cũng có thể thay đổi hoàn toàn câu chuyện,” ông Khanh nhấn mạnh.
Ông dẫn chứng Mexico là nơi đánh thuế tới 50% đối với hàng hóa châu Á không có FTA, trong khi hàng từ các nước có FTA được hưởng 0%. “Chênh lệch giữa 50% và 0% là quá lớn để làm ngơ, nhưng rất ít doanh nghiệp Việt kịp dịch chuyển để tận dụng cơ hội đó,” ông nói.
Theo ông Khanh, thị phần xuất khẩu của Việt Nam sang EU biến động thất thường, thậm chí có lúc còn thấp hơn trước khi EVFTA có hiệu lực. Ông cho rằng nguyên nhân là doanh nghiệp thiếu tập trung chiến lược, dàn trải nguồn lực sang nhiều thị trường khác. “Đa dạng hóa là tốt, nhưng phải có trọng tâm, không thể bỏ quên lợi thế sẵn có,” ông nhấn mạnh.
Để không bỏ lỡ thời gian vàng còn lại, nhiều chuyên gia tại diễn đàn khuyến nghị Việt Nam chuyển hướng sang xuất khẩu xanh và minh bạch chuỗi cung ứng.
Ông Đỗ Đức Tưởng, chuyên gia của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), bổ sung rằng số hóa chuỗi cung ứng và truy xuất nguồn gốc là chìa khóa để duy trì ưu thế. Ông dẫn ví dụ một nhà máy pin mặt trời của Trung Quốc tại Việt Nam đã ứng dụng blockchain để chứng minh nguồn nguyên liệu không đến từ vùng có lao động cưỡng bức. Nhờ đó, sản phẩm được cơ quan Mỹ chấp thuận xuất khẩu mà không bị áp thuế như hàng Trung Quốc.
“Khi dữ liệu được đo lường, quản lý và minh bạch, việc chứng minh tuân thủ tiêu chuẩn xanh sẽ thuận lợi hơn rất nhiều,” ông Tưởng nhấn mạnh, đồng thời khuyến nghị Việt Nam cần sớm thiết lập cơ chế thống nhất về báo cáo phát thải, tiêu chuẩn ESG và truy xuất nguồn gốc.
Minh Anh - nguoiquansat.vn
Theo Kiến thức Đầu tư
Bình luận
0 Bình luận