Tính theo tỷ lệ, cứ 4 đồng xuất khẩu của Việt Nam thì có 3 đồng đến từ khu vực FDI. Đây không phải là diễn biến bất ngờ mà nằm trong xu hướng tăng đều qua nhiều năm.

Dữ liệu 11 tháng đầu năm đang cho thấy khu vực doanh nghiệp FDI tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, với tỷ trọng chiếm hơn 76%.
Theo số liệu từ Cục Thống kê (Bộ Tài chính), tổng kim ngạch xuất khẩu 11 tháng đạt khoảng 430 tỷ USD. Trong đó, các doanh nghiệp ngoại (gồm cả dầu thô) xuất đi khoảng 327,7 tỷ USD, tăng 23,1%. Ngược lại, họ nhập về 281,2 tỷ USD, tăng 28%. Tính theo tỷ lệ, cứ 4 đồng xuất khẩu của Việt Nam thì 3 đồng đến từ khu vực FDI.
Đây không phải là diễn biến bất ngờ mà nằm trong xu hướng tăng đều qua nhiều năm. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh, giai đoạn 2001 - 2005 là 57,8 tỷ USD, 2006 - 2010 là 154,9 tỷ USD, bằng 2,67 lần, chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước (kể cả dầu thô). Đến năm 2015, doanh nghiệp FDI vẫn thống trị xuất khẩu của Việt Nam, tỷ lệ này đã tăng lên khoảng 70% tổng kim ngạch cả nước, sau đó duy trì quanh 73-74% trong những năm gần đây.
Việc tỷ trọng năm nay tăng lên hơn 76% phản ánh sự mở rộng liên tục của khu vực doanh nghiệp nước ngoài trong các ngành hàng xuất khẩu quan trọng.
Cơ cấu cán cân thương mại cũng cho thấy sự đóng góp lớn của FDI. Cán cân thương mại hàng hóa tháng 11/2025 xuất siêu 1,09 tỷ USD. Tính chung 11 tháng năm 2025, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 20,53 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 24,38 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 25,99 tỷ USD; khu vực FDI (kể cả dầu thô) xuất siêu 46,52 tỷ USD.
Bên cạnh hoạt động thương mại sôi động, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam trong 11 tháng đạt 33,6 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ. Điều này cho thấy môi trường đầu tư tiếp tục duy trì sức hút với nhà đầu tư quốc tế.
Sự gia tăng về tỷ trọng xuất khẩu và thặng dư thương mại của khu vực FDI trong năm nay cũng phần nào phản ánh khả năng mở rộng sản xuất của các doanh nghiệp ngoại, cũng như vị trí của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Tuy vậy, bức tranh này đồng thời cho thấy khu vực doanh nghiệp trong nước cần tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị xuất khẩu.
Tại báo cáo “Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Hoa Kỳ – Ứng phó thuế quan và tầm nhìn dài hạn” do FiinGroup công bố vào thời điểm giữa năm nay đã nhận định, các doanh nghiệp FDI đang chiếm ưu thế trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu, các lĩnh vực vốn được xem là thế mạnh truyền thống của Việt Nam như thủy sản, doanh nghiệp nội địa cũng đang phải chia sẻ thị phần với khối FDI.
Thực tế cho thấy, phần lớn giá trị xuất khẩu có hàm lượng kỹ thuật cao vẫn do khối FDI nắm giữ, trong khi các ngành truyền thống đang dần mất lợi thế cạnh tranh do chi phí tăng, quy định kỹ thuật siết chặt và thiếu đầu tư đổi mới công nghệ.
Ngoài ra, mức độ phụ thuộc cao vào khu vực FDI trong hoạt động xuất khẩu cũng tiềm ẩn rủi ro cho nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là khi có biến động từ các công ty đa quốc gia hoặc thị trường quốc tế.
Đóng góp của khu vực FDI trong phát triển kinh tế của Việt Nam, trong đó có lĩnh vực xuất khẩu là rất quan trọng. Tuy nhiên, những hạn chế của khu vực này là không thể không kể tới. Trong đó, đóng góp của FDI vào tiến bộ khoa học - công nghệ trong nước còn hạn chế; mức độ liên kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước còn thấp, làm giảm khả năng chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp nội địa.
Trong phiên thảo luận về dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) gần đây, đại biểu Hà Sỹ Đồng (đoàn Quảng Trị) cũng đã đưa ra nhận định về tầm quan trọng của ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài, ông coi đây là xương sống của chính sách thu hút đầu tư. Tuy nhiên, đại biểu cảnh báo nếu ưu đãi lớn mà không kèm điều kiện chuyển giao công nghệ thì "chúng ta mãi làm công xưởng".
Dự thảo Luật Đầu tư quy định ưu đãi đặc biệt đối với dự án có vốn từ 3.000 đến 6.000 tỷ đồng là bước tiến nhưng chưa ràng buộc cam kết chuyển giao công nghệ. Do đó, ông Đồng đề nghị bổ sung điều kiện tối thiểu: Dự án hưởng ưu đãi đặc biệt phải chuyển giao công nghệ đạt cấp độ hai trở lên và đào tạo ít nhất 200 lao động bậc cao cho Việt Nam mỗi năm. Nếu không hoàn thành cam kết, cần thu hồi ưu đãi và có thể xử lý phạt bội hoàn gấp đôi số tiền ưu đãi đã được hưởng.
Cũng về nội dung ưu đãi và hỗ trợ đầu tư, đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân (đoàn TP Hồ Chí Minh) cũng cho rằng đây là nhóm quy định có ý nghĩa then chốt trong việc định hình môi trường đầu tư của Việt Nam trong giai đoạn mới.
Nội dung này nếu được thiết kế đầy đủ, minh bạch và có tính tiên lượng cao sẽ trở thành đòn bẩy quan trọng để thu hút dòng vốn đầu tưchất lượng cao, đồng thời nâng đỡ doanh nghiệp trong nước phát triển.
Song song với sự nổi bật của khu vực FDI, bức tranh ngoại thương của Việt Nam 11 tháng đầu năm 2025 duy trì đà tăng trưởng mạnh. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 840 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ và là mức cao nhất từ trước đến nay.
Trong đó, xuất khẩu đạt khoảng 430 tỷ USD, tăng 16,1%, còn nhập khẩu đạt khoảng 409 tỷ USD, tăng 18,4%. Việc duy trì xuất siêu hơn 20 tỷ USD tiếp tục hỗ trợ cân đối vĩ mô, ổn định hoạt động thanh toán và tạo dư địa cho nền kinh tế.

Sức kéo chủ yếu nhờ các mặt hàng chủ lực. Cụ thể, trong 11 tháng, có 36 mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD, và 8 mặt hàng vượt 10 tỷ USD. Ở chiều nhập khẩu, 47 mặt hàng đạt trên 1 tỷ USD, 6 mặt hàng trên 10 tỷ USD.
Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với 138,6 tỷ USD, trong khi Trung Quốc giữ vị trí đối tác nhập khẩu lớn nhất với 167,5 tỷ USD.
Trong 11 tháng năm 2025, xuất siêu sang Mỹ đạt 121,6 tỷ USD tăng 27,5% so với cùng kỳ năm trước; xuất siêu sang EU 35,6 tỷ USD, tăng 10,4%; xuất siêu sang Nhật Bản 2,0 tỷ USD, giảm 29,7%; nhập siêu từ Trung Quốc 104,3 tỷ USD, tăng 38,1%; nhập siêu từ Hàn Quốc 28,3 tỷ USD, tăng 1,9%; nhập siêu từ ASEAN 12,4 tỷ USD, tăng 46,3%.
Mai Anh - nguoiquansat.vn
Theo Kiến thức Đầu tư
Bình luận
0 Bình luận