Vĩ mô

Giá gạo xuất khẩu thấp nhất trong 10 năm, vì sao thị trường bán lẻ trong nước vẫn chưa 'hạ nhiệt' ?

Giá gạo xuất khẩu Việt Nam giảm mạnh sau khi Ấn Độ gỡ lệnh hạn chế, trong khi đó giá bán lẻ vẫn cao và doanh nghiệp gặp khó vì chậm hoàn thuế.

gia-gao-57-16254537671021793262063.jpg

Một năm sau khi Ấn Độ gỡ bỏ lệnh hạn chế xuất khẩu gạo, thị trường gạo thế giới đã chứng kiến biến động mạnh mẽ. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm sâu, trong khi giá bán lẻ trong nước vẫn duy trì ở mức cao, tạo áp lực lớn lên cả doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Giai đoạn 2023-2024, Việt Nam từng hưởng lợi đáng kể nhờ nguồn cung toàn cầu bị thắt chặt khi Ấn Độ siết xuất khẩu gạo, qua đó đẩy giá gạo thế giới lên cao. Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2024 đạt mức kỷ lục 9 triệu tấn. Tuy nhiên, từ tháng 9/2024, khi Ấn Độ dỡ bỏ hạn chế, nguồn cung toàn cầu tăng đột ngột khiến giá gạo xuất khẩu giảm mạnh.

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), đến ngày 22/10, giá gạo 5% tấm của Việt Nam chỉ còn 368 USD/tấn, giảm 35% so với cùng kỳ năm trước, xuống mức thấp nhất trong vòng 10 năm. Trên thị trường quốc tế, gạo Thái Lan cùng loại cũng giảm về 333 USD/tấn, trong khi giá gạo Ấn Độ lại tăng nhẹ khi nhu cầu có dấu hiệu phục hồi.

Hội đồng Ngũ cốc Quốc tế (IGC) dự báo sản lượng gạo toàn cầu niên vụ 2025-2026 sẽ đạt mức kỷ lục 727 triệu tấn, tăng 1,5%, với tồn kho tăng 4,7% lên 183 triệu tấn. Đáng chú ý, riêng Ấn Độ chiếm gần 40% lượng xuất khẩu gạo toàn cầu, sản lượng ước đạt 145 triệu tấn và dự trữ lên đến 48,2 triệu tấn tính đến ngày 1/9.

Trong bối cảnh đó, Philippines – thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới – đã tạm dừng nhập khẩu từ 1/9 để bảo hộ sản xuất nội địa. Nếu việc tạm ngừng kéo dài đến năm 2026, thị trường gạo thế giới sẽ mất đi một điểm cầu lớn trong nhiều tháng.

Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, trong 9 tháng đầu năm, Việt Nam xuất khẩu 7 triệu tấn gạo, thu về 3,55 tỷ USD, tăng 0,1% về lượng nhưng giảm 18,5% về giá trị do giá xuất khẩu bình quân giảm mạnh. Philippines vẫn là thị trường tiêu thụ lớn nhất của gạo Việt Nam với 44% thị phần, song giá trị xuất khẩu sang thị trường này đã giảm 16,4%. Ghana và Bờ Biển Ngà lần lượt chiếm 11,4% và 10,7%. Đáng chú ý, xuất khẩu sang Bangladesh tăng tới 164,7 lần, trong khi xuất khẩu sang Malaysia lại giảm 55,1%.

Trên thị trường nội địa, giao dịch lúa gạo ghi nhận chậm lại. Ngày 28/10 tại Đồng bằng sông Cửu Long, cuối vụ nguồn hàng không dồi dào nhưng giao dịch thưa thớt. Tại An Giang, giá lúa nguyên liệu xuất khẩu dao động từ 7.700 đến hơn 8.600 đồng/kg tùy giống, trong khi giá gạo thành phẩm như IR 504 và OM 380 vẫn giữ ở mức 8.800–9.700 đồng/kg. Tại Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, lượng hàng về ít, giá không giảm thêm.

Ngược lại, giá bán lẻ tại chợ và siêu thị trên cả nước vẫn neo cao. Các loại gạo thơm phổ biến như Nàng Nhen, Hương Lài hay Nàng Hoa 9 có giá từ 21.000 đến 28.000 đồng/kg, gạo Jasmine dao động 16.000–18.000 đồng/kg, trong khi gạo trắng thông dụng vẫn từ 12.000–16.000 đồng/kg.

Các đơn vị phân phối cho biết mức chênh lệch không xuất phát từ đầu cơ mà chủ yếu do độ trễ chuỗi cung ứng, hợp đồng giao hàng ký trước với giá cao và chi phí vận hành tăng 10-15%.

gao-lua-1740800663.jpg
Giá bán lẻ gạo tại chợ và siêu thị trên cả nước vẫn neo cao

Bên cạnh yếu tố thị trường, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng đang đối mặt khó khăn do vướng mắc hoàn thuế giá trị gia tăng 5% từ tháng 7/2025 đến nay. Việc hoàn thuế bị chậm khiến dòng vốn bị đóng băng, làm hạn chế khả năng thu mua và tạm trữ, trong khi giá lúa nguyên liệu đang ở mức thấp nhất nhiều năm, chỉ khoảng gần 5.000 đồng/kg, khiến cả doanh nghiệp lẫn nông dân đều chịu ảnh hưởng.

Theo phản ánh, tới thời điểm hiện tại, chưa có doanh nghiệp nào trong ngành được hoàn thuế, tổng số tiền tạm nộp đã lên đến hàng trăm tỷ đồng.

Philippines - thị trường chiếm gần 40% kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam - được kỳ vọng sẽ mở lại nhập khẩu từ đầu tháng 12/2025, nhưng hiện vẫn chưa có tín hiệu rõ ràng. Nếu việc tạm ngừng kéo dài sang vụ Đông Xuân, vốn là vụ lúa chính của Việt Nam, thị trường sẽ đối diện rủi ro nghiêm trọng.

Trong thời gian chờ đợi, Việt Nam vẫn duy trì xuất khẩu bình quân 500.000 tấn mỗi tháng nhờ thị trường châu Phi và Trung Quốc, trong đó riêng Trung Quốc đã nhập hơn 600.000 tấn. Một số doanh nghiệp cũng đã tiếp cận được thị trường Nhật Bản dù thuế nhập khẩu lên tới 400%.

Trước tình hình hiện nay, trong cuộc trao đổi với báo chí ở một sự kiện diễn ra mới đây, ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), đề nghị cần sớm tháo gỡ vấn đề thuế giá trị gia tăng bằng cách quay lại chính sách không phải kê khai và không tính thuế đối với sản phẩm nông nghiệp sơ chế như trước đây. Ông đồng thời nhấn mạnh vai trò quan trọng của các hợp đồng Chính phủ trong việc ổn định thị trường và duy trì sức cạnh tranh của xuất khẩu gạo Việt Nam trong bối cảnh biến động toàn cầu.

Mai Anh - nguoiquansat.vn

Theo Kiến thức Đầu tư