Vĩ mô

Khu công nghiệp sinh thái vẫn ‘tắc’ vì quy định lỗi thời: Doanh nghiệp mong có cơ chế mới

"Hiện Bộ KH&ĐT đã ban hành Bộ chỉ số KCN sinh thái quốc gia gồm 23 tiêu chí, nhưng khi triển khai thực tế, nhiều quy định lại không cho phép doanh nghiệp thực hiện đúng tinh thần của chuyển đổi xanh,” lãnh đạo doanh nghiệp nói.

Doanh nghiệp kêu cứu vì cung vượt cầu

Tại Diễn đàn “Chuyển đổi kép – động lực cho tăng trưởng kinh tế: Góc nhìn từ chính sách đến thực tiễn” diễn ra chiều 30/10, ông Ngô Đức Lưu, quyền Tổng Giám đốc Tổng Công ty Xi măng Việt Nam (VICEM) cho biết, sau nhiều năm phát triển, ngành xi măng Việt Nam đã trở thành một trong những ngành công nghiệp nền tảng, đóng góp lớn cho quá trình xây dựng hạ tầng trong nước và xuất khẩu sang hơn 20 quốc gia. Tuy nhiên, ngành cũng đang phải đối mặt với áp lực ngày càng lớn từ vấn đề môi trường, tiêu hao năng lượng hóa thạch và sử dụng tài nguyên không tái tạo.

Theo ông Lưu, khoảng 10 năm trở lại đây, các doanh nghiệp xi măng đã chủ động thay đổi, từng bước hướng tới sản xuất xanh và tuần hoàn. Hiện nhiều nhà máy trong hệ thống VICEM đã tận dụng nhiệt thừa từ quá trình sản xuất để phát điện, đáp ứng 25–30% nhu cầu năng lượng, đồng thời đầu tư hệ thống điện mặt trời áp mái để giảm tải cho lưới điện quốc gia.

Đặc biệt, với nhiệt độ lò nung trên 1.600°C, ngành xi măng có thể đốt và xử lý triệt để nhiều loại rác thải công nghiệp, rác thải nguy hại, đồng thời tận dụng đến 30% năng lượng từ nguồn này. VICEM cũng đang nghiên cứu sử dụng bùn nạo vét sông hồ thay thế một phần nguyên liệu thô, vừa xử lý chất thải rắn vừa góp phần cải thiện môi trường đô thị.

Tuy nhiên, ông Lưu nhấn mạnh, để mở rộng các mô hình sản xuất xanh, cần cơ chế hỗ trợ rõ ràng và thực chất. Hiện nay, việc khai thác và xử lý nguyên liệu thay thế có chi phí cao hơn nhiều so với khai thác tài nguyên thiên nhiên, trong khi cơ chế ưu đãi, khuyến khích còn hạn chế.

“Chúng ta từng quy hoạch hơn 50 dự án điện rác, nhưng hầu hết chưa xử lý triệt để chất thải, vẫn tạo ra tro xỉ. Trong khi đó, ngành xi măng hoàn toàn có thể tận dụng tro bay, xỉ thép, xỉ hóa chất từ các ngành công nghiệp khác làm nguyên liệu đầu vào, vừa tiết kiệm chi phí, vừa giảm phát thải,” ông nói.

Ngoài ra, ngành xi măng đang gặp vấn đề mất cân đối cung – cầu nghiêm trọng. Năng lực sản xuất hiện đạt khoảng 130 triệu tấn/năm, trong khi nhu cầu trong nước chỉ khoảng 65 triệu tấn, khiến gần một nửa sản lượng phải xuất khẩu với giá trị gia tăng thấp. Ông Lưu đề nghị Nhà nước tăng đầu tư công, mở rộng thị trường hạ tầng trong nước, đồng thời quản lý tổng cung, tránh tình trạng dư thừa kéo dài.

Song song với đó, VICEM đang triển khai kế hoạch giảm phát thải và thu hồi carbon, hướng tới tham gia thị trường tín chỉ carbon. “Đến cuối năm 2026, khi sàn giao dịch carbon quốc gia vận hành, đây sẽ là cơ hội lớn cho doanh nghiệp xi măng vừa giảm phát thải vừa tạo thêm nguồn thu,” ông Lưu chia sẻ.

a42-17013315739411520618687.jpg
Dù đã đầu tư mạnh cho chuyển đổi xanh và tuần hoàn, nhiều khu công nghiệp ở Việt Nam vẫn “mắc kẹt” trong hành lang pháp lý lỗi thời.

Khu công nghiệp sinh thái vẫn 'mắc' vì quy định lỗi thời

Câu chuyện về rào cản thể chế cũng được bà Trần Tố Loan, Phó Chủ tịch Tập đoàn Sao Đỏ, chủ đầu tư Khu công nghiệp Nam Đình Vũ (Hải Phòng) nêu ra.

Theo bà Loan, Nam Đình Vũ đang trong giai đoạn chuyển đổi từ mô hình khu công nghiệp truyền thống sang khu công nghiệp sinh thái, hướng đến sản xuất sạch hơn, tiết kiệm tài nguyên hơn, và tiến tới mô hình cộng sinh công nghiệp. Tuy nhiên, dù đã thực hiện chuyển đổi kép suốt 4 năm, khu công nghiệp vẫn chưa thể đạt chuẩn “sinh thái” do vướng mắc từ các quy định lỗi thời.

“Hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban hành Bộ chỉ số khu công nghiệp sinh thái quốc gia gồm 23 tiêu chí, nhưng khi triển khai thực tế, nhiều quy định lại không cho phép doanh nghiệp thực hiện đúng tinh thần của chuyển đổi xanh,” bà Loan nói.

Một ví dụ điển hình là vấn đề tái sử dụng nước thải. Theo quy định hiện hành, toàn bộ nước thải trong khu công nghiệp phải xả ra môi trường qua hệ thống quan trắc tự động, không được tái sử dụng. Trong khi đó, Tập đoàn Sao Đỏ đã đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung, có khả năng tái sử dụng nước cho tưới cây, phòng cháy chữa cháy, nhưng vẫn không được phép.

“Đây là một nghịch lý lớn khi quy định hiện hành đang cản trở chính mục tiêu kinh tế tuần hoàn mà Nhà nước khuyến khích,” bà Loan nêu.

Một rào cản khác là quy định yêu cầu 20% doanh nghiệp trong khu công nghiệp phải thực hiện sản xuất xanh và sử dụng công nghệ tốt hơn. Tuy nhiên, việc chuyển đổi công nghệ hiện rất khó khăn do thiếu vốn, thiếu tiếp cận công nghệ, và đặc biệt là vướng mắc thể chế.

Thậm chí, một số dự án tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế lại bị mắc do quy định trong nước chưa cập nhật. “Có doanh nghiệp nhập khẩu hạt nhựa nguyên sinh theo tiêu chuẩn EU làm nguyên liệu sản xuất, nhưng lại bị coi là tái chế, do đó không được cấp phép đầu tư. Cách hiểu cứng nhắc này khiến các khu công nghiệp khó thu hút dự án xanh và tái chế,” bà Loan dẫn chứng.

Từ thực tế này, bà Trần Tố Loan kiến nghị hoàn thiện hành lang pháp lý cho khu công nghiệp sinh thái, đảm bảo quy định phù hợp với 23 chỉ số quốc gia, tránh chồng chéo và bất cập.

“Chúng tôi mong cơ quan quản lý bám sát thực tiễn, tạo cơ chế linh hoạt hơn để doanh nghiệp thực hiện đúng mục tiêu chuyển đổi kép, vừa xanh, vừa số hóa,” bà nhấn mạnh.

Minh Anh - nguoiquansat.vn

Theo Kiến thức đầu tư