Vĩ mô

Kinh tế trưởng ADB hé lộ chiến lược ‘hóa giải’ dư nợ ngân hàng thành trái phiếu, giảm rủi ro tín dụng

Kinh tế trưởng ADB hé lộ chiến lược biến dư nợ ngân hàng thành trái phiếu, giúp giảm rủi ro tín dụng, bổ sung vốn trung – dài hạn cho nền kinh tế và tăng sức chống chịu của hệ thống ngân hàng.

Tại Hội thảo “Đa dạng vốn cho phát triển bền vững”, sáng 15/12, ông Nguyễn Bá Hùng – Chuyên gia Kinh tế trưởng tại Việt Nam, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), nhấn mạnh mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ năm 2026 trở đi là 10%, một con số đầy tham vọng so với kinh nghiệm lịch sử 30 năm qua và so với các nền kinh tế Đông Nam Á khác.

Trong khi Trung Quốc là nước duy nhất đạt trên 10% trong giai đoạn tăng trưởng cao nhất, các “con hổ châu Á” như Hàn Quốc, Singapore hay Đài Loan chỉ đạt trên 9%, còn Thái Lan, Indonesia, Malaysia chỉ đạt khoảng 7%.

Để đạt mục tiêu này, nguồn vốn đầu tư phải được huy động mạnh mẽ, từ cả đầu tư công lẫn đầu tư toàn xã hội. Ông Hùng đưa ra con số cụ thể: Trong 5 năm tới, Việt Nam cần huy động thêm khoảng 50–70 tỷ USD cho đầu tư công và 250–350 tỷ USD cho đầu tư toàn xã hội, vượt xa khả năng ngân sách hiện tại.

chuyen-gia-kinh-te-truong-adb-thuong-hieu-phai-la-20231010152748.jpg
Ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia Kinh tế trưởng ADB.

Đáng chú ý, Kinh tế trưởng ADB chỉ rõ, hiện nay, thị trường tín dụng trong nước chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng, với tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP khoảng 130%, nằm trong mức trung bình của các nước thu nhập trung bình – mới nổi. Tuy nhiên, so với tốc độ tăng trưởng nhanh của Việt Nam, mức dư nợ này là rất cao.

"Điều này đặt ra hai thách thức: Liệu ngân hàng có thể ngừng tăng tín dụng? Câu trả lời là khó, vì ngân hàng vẫn là kênh cung cấp tín dụng chính cho nền kinh tế. Vậy làm thế nào để vừa duy trì tăng trưởng tín dụng, vừa giảm tỷ trọng dư nợ so với GDP", ông Hùng đặt vấn đề.

Giải pháp có hai hướng: Thứ nhất, tăng GDP, giúp tỷ trọng dư nợ trên GDP giảm tương đối. Thứ hai, phát triển thị trường vốn, đặc biệt là thị trường trái phiếu, để bổ sung vốn cho nền kinh tế.

Khi thị trường trái phiếu phát triển, ngân hàng có thể “chuyển đổi” một phần dư nợ trung – dài hạn thành trái phiếu, giảm áp lực dư nợ trực tiếp trên ngân hàng. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, khoảng 40% dư nợ trung – dài hạn hoàn toàn có thể chuyển đổi sang trái phiếu, tạo ra nguồn vốn ổn định và dài hạn cho nền kinh tế.

“Điều này minh chứng rằng, thị trường vốn, đặc biệt thị trường trái phiếu, không chỉ là công cụ tài chính mà còn là “van giảm áp” quan trọng giúp hệ thống ngân hàng tăng trưởng an toàn và nền kinh tế vận hành bền vững hơn”, vị chuyên gia cho hay.

Ông Hùng nhận định, thị trường trái phiếu Việt Nam còn nhiều dư địa phát triển: Trái phiếu doanh nghiệp chiếm tỷ trọng thấp, trong khi các nước như Singapore, Thái Lan, Malaysia có tỷ trọng doanh nghiệp cao hơn đáng kể.

Thanh khoản thị trường thứ cấp hạn chế, đặc biệt với trái phiếu doanh nghiệp, dẫn đến rủi ro cao khi cần bán trước hạn. Khả năng huy động vốn từ nhà đầu tư nước ngoài bằng đồng nội tệ còn gần như bằng không, trong khi các nước trong khu vực có thể đạt trên 20%.

“Những yếu tố này cho thấy, nếu thị trường trái phiếu phát triển mạnh, có thể cung cấp vốn trung và dài hạn ổn định cho doanh nghiệp, giảm áp lực lên hệ thống ngân hàng”, ông nhấn mạnh.

Ngoài thị trường nợ, ông Hùng cũng nhấn mạnh vai trò của vốn chủ sở hữu qua thị trường chứng khoán, hiện chiếm khoảng 40% GDP, thấp hơn mức trung bình các nền kinh tế đang phát triển trong khu vực (50–60%). Việc phát triển mạnh mẽ kênh vốn này giúp doanh nghiệp huy động vốn không chịu áp lực trả nợ, giảm rủi ro thanh khoản và chi phí vốn.

Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn tại Việt Nam vẫn là thách thức. Chênh lệch năng suất lao động giữa doanh nghiệp trong nước và FDI còn cao, và chi phí vốn của doanh nghiệp tư nhân thường cao hơn 1–1,5% so với doanh nghiệp nhà nước hoặc FDI.

Ông Hùng chỉ ra rằng, đưa yếu tố phát triển bền vững vào đầu tư công không chỉ giúp chống chịu thiên tai và biến đổi khí hậu mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ví dụ, thiết kế hạ tầng theo các kịch bản biến đổi khí hậu giúp giảm thiệt hại, tăng hiệu quả kinh tế – xã hội trên mỗi đồng vốn đầu tư.

Ông cũng nhấn mạnh, cải cách thể chế và chính sách là yếu tố then chốt để thị trường vốn phát huy hiệu quả. IMF dự báo, nếu thực hiện tốt các cải cách từ 2025–2030, Việt Nam có thể tăng tốc độ tăng trưởng GDP thêm khoảng 2 điểm phần trăm, trong đó cải cách thị trường vốn chiếm gần một nửa hiệu quả. Đây chính là kênh quan trọng để biến lợi ích cải cách thành kết quả tăng trưởng thực chất.

Minh Anh - nguoiquansat.vn

Theo Kiến thức Đầu tư