Vĩ mô

Một ngành giàu tài nguyên nhưng nghèo lợi nhuận khi đang gánh tổng nghĩa vụ thuế và phí lên đến 25% doanh thu

Ngành này đối mặt nghịch lý 'thuế chồng thuế', làm giảm sức cạnh tranh và cản trở đầu tư chế biến sâu.

bat-cap-trong-nganh-cong-nghiep-khai-khoang-15173826400501535423195-143-0-946-1429-crop-15173826509191096096658.jpg
Doanh nghiệp khai khoáng hiện đang phải gánh hơn 14 loại thuế và phí

Ngành công nghiệp khai khoáng - trụ cột cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, năng lượng, xây dựng, quốc phòng và công nghệ cao đang phải đối mặt với một nghịch lý lớn khi tiềm năng tài nguyên thuộc nhóm hàng đầu thế giới nhưng lợi ích kinh tế thu về lại thấp, trong khi gánh nặng thuế và phí lại cao hàng đầu khu vực.

Gánh nặng thuế chồng thuế

Theo các chuyên gia, bất cập lớn nhất hiện nay trong chính sách tài chính đối với ngành khai khoáng Việt Nam là việc áp dụng đồng thời thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, hai nghĩa vụ tài chính có bản chất trùng lặp.

Cụ thể, doanh nghiệp phải nộp tiền cấp quyền khai thác trước khi dự án đi vào vận hành, dựa trên trữ lượng được cấp phép. Khi khai thác thực tế, họ tiếp tục nộp thuế tài nguyên theo sản lượng thực tế. Tại hội thảo 'Chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản’ vừa diễn ra, TS. Nguyễn Tiến Chỉnh - Hội Khoa học và Công nghệ Mỏ Việt Nam, chỉ rõ: “Việc thu tiền cấp quyền trước khi khai thác là rất bất hợp lý, vì trữ lượng và chất lượng khoáng sản chỉ được xác định chính xác sau khai thác. Cách làm này vừa tạo gánh nặng tài chính, vừa tiềm ẩn rủi ro thất thu ngân sách do chênh lệch giữa số liệu ước tính và thực tế.”

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Phan Chiến Thắng, Phó Tổng Giám đốc Công ty TNHH Khai thác Chế biến Khoáng sản Núi Pháo, cho biết:“Rất ít quốc gia trên thế giới áp dụng song song hai loại nghĩa vụ như vậy. Chính điều này khiến chi phí khai thác ở Việt Nam cao hơn đáng kể, ảnh hưởng tới tính cạnh tranh quốc tế và việc thu hút đầu tư.”

Thực tế, doanh nghiệp khai khoáng hiện đang phải gánh hơn 14 loại thuế và phí, chiếm tới 25-30% doanh thu, trong khi mức trung bình ở các nước phát triển như Úc, Mỹ hay Malaysia chỉ khoảng 5-10%. Đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp lên tới 50% đối với khai thác vonfram và đất hiếm, cao gấp đôi mức tiêu chuẩn thông thường là 20%.

Theo báo cáo của Deloitte Việt Nam, Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia có trữ lượng khoáng sản lớn nhất thế giới, xếp thứ 3 về florit, thứ 4 về vonfram, thứ 5 về bô-xít và thứ 6 về đất hiếm. Đây là nguồn lực quan trọng để phát triển các ngành công nghệ tương lai như sản xuất pin, chip bán dẫn, vũ khí hiện đại hay tên lửa phòng không.

Cũng tại hội thảo, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký VCCI, nhận định: “Khoáng sản là chìa khóa nâng cao vị thế địa chính trị của Việt Nam. Tuy nhiên, nghĩa vụ tài chính hiện nay cao hơn nhiều lần so với mức trung bình thế giới, tạo rủi ro lớn cho năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư”.

ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký VCCI
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký VCCI

Một ví dụ điển hình là Masan High-Tech Materials (MHT) - nhà sản xuất vonfram lớn hàng đầu Việt Nam. Doanh nghiệp này đã đầu tư hàng tỷ USD vào dây chuyền chế biến sâu, song phải đối mặt với hàng loạt biến động chính sách. Thuế tài nguyên tăng từ dưới 10% lên 15-20%, thêm tiền cấp quyền khai thác và phí bảo vệ môi trường phát sinh khiến phương án tài chính đảo lộn.

Sự thiếu nhất quán trong các chính sách thuế tiếp tục làm mất lợi thế công nghệ của MHT khi nhiều sản phẩm đã được Bộ Công Thương xác nhận là sản phẩm công nghiệp nhưng vẫn nằm im trong Danh mục khoáng sản thô theo Nghị định 181/2025/NĐ-CP và đồng nghĩa với việc không được hoàn thuế VAT.

Hoàn thiện chính sách, khơi thông nguồn lực

Một trong những mục tiêu được khẳng định rõ trong Nghị quyết 10-NQ/TW (2022) của Bộ Chính trị hiện nay là phát triển công nghiệp chế biến sâu, nâng cao giá trị tài nguyên trong nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hệ thống thuế phí hiện hành lại chưa nhất quán với định hướng này.

Cũng tại Hội thảo, ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Vụ trưởng Vụ Quản lý Thuế doanh nghiệp lớn (Bộ Tài chính), cho rằng: “Vấn đề cốt lõi là cần hoàn thiện thể chế một cách đồng bộ. Việc hợp nhất Thuế Tài nguyên và Tiền cấp quyền là cần thiết để đảm bảo tính minh bạch, công bằng và cạnh tranh quốc tế, đồng thời tạo động lực thực sự cho các dự án chế biến sâu.”

ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Vụ trưởng Vụ Quản lý Thuế Doanh nghiệp Lớn (Bộ Tài chính)
Ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Vụ trưởng Vụ Quản lý Thuế doanh nghiệp lớn (Bộ Tài chính)

Các chuyên gia đều thống nhất rằng, hợp nhất hai loại thuế và phí này thành một khoản thu duy nhất là giải pháp căn cơ, vừa giảm thủ tục hành chính, vừa tránh chồng chéo. Đồng thời, cần áp dụng ưu đãi có điều kiện như miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu hoặc tận thu khoáng sản đi kèm.

Theo ông Đậu Anh Tuấn, để khơi thông dòng vốn và thúc đẩy phát triển bền vững, cần hoàn thiện chính sách tài chính khoáng sản theo hướng hài hòa lợi ích Nhà nước - doanh nghiệp - xã hội. Một khung chính sách hợp lý sẽ “nuôi dưỡng nguồn thu”, gắn kết phát triển kinh tế với trách nhiệm môi trường - xã hội, đồng thời tăng sức hấp dẫn đầu tư.

Nếu được điều chỉnh hợp lý, ngành khoáng sản Việt Nam không chỉ thoát khỏi gánh nặng “thuế chồng thuế”, mà còn có thể vươn lên trở thành ngành công nghiệp công nghệ cao, khai thác hiệu quả tài nguyên, gia tăng giá trị nội địa và nâng tầm vị thế quốc gia trên bản đồ vật liệu chiến lược toàn cầu.

Mai Anh - nguoiquansat.vn

Theo Kiến thức Đầu tư