Vĩ mô

Nông dân Thái Lan tìm hướng đi mới để thoát khỏi cuộc khủng hoảng giá gạo, chuyên gia chỉ rõ lý do khiến họ đang tụt hậu với Việt Nam

Theo chuyên gia, cách làm của Việt Nam đối với chính sách lúa gạo được xem như những bài học quan trọng cho Thái Lan.

image (22)
Chính sách lúa gạo của Thái Lan trong nhiều năm qua thiếu còn nhiều điều cần khắc phục, trong khi đó Việt Nam được đánh giá là làm khá tốt. Ảnh minh họa

Giá gạo Thái Lan lao dốc xuống mức thấp nhất trong hơn 15 năm đang đẩy nhiều nông dân nước này vào tình thế khó khăn, buộc họ phải tìm kiếm hướng đi mới. Trong bối cảnh giá thu mua lúa trong nước ngày càng thấp, chi phí sản xuất lại tăng, một bộ phận nông dân Thái Lan bắt đầu quay sang trồng các giống lúa Nhật Bản chất lượng cao để tiếp cận thị trường Nhật - nơi giá gạo bán lẻ đang tăng mạnh và nhu cầu đối với gạo châu Á ngày càng rõ nét.

Tại nhiều vùng trồng lúa của Thái Lan, một số hộ đã thử nghiệm giống koshihikari - loại gạo nổi tiếng của Nhật. Một nông dân ở tỉnh Udon Thani cho biết đã chuẩn bị xuất lô hàng 50 tấn koshihikari đầu tiên sang Nhật Bản, chấp nhận mức thuế 341 yen/kg do nằm ngoài hạn ngạch ưu đãi. Anh tin rằng khí hậu nóng cùng khả năng sản xuất 2-3 vụ mỗi năm giúp gạo koshihikari trồng tại Thái Lan có chất lượng tương đương nhưng giá chỉ bằng một nửa gạo Nhật, mở ra cơ hội trong bối cảnh thị trường này đang thiếu nguồn cung.

Nhật Bản từng trải qua cú sốc thiếu gạo năm 1993, buộc phải nhập khẩn cấp gạo Thái dù không hợp khẩu vị thời điểm đó. Tuy nhiên, sự phổ biến của ẩm thực Đông Nam Á trong những năm gần đây giúp hình ảnh gạo Thái “mềm, ngọt” dần quen thuộc hơn với người tiêu dùng Nhật. Công ty xuất khẩu Wonnapob cho biết lượng gạo Jasmine xuất sang Nhật từ đầu năm đến tháng 10/2025 đã đạt 1.500 tấn, gấp sáu lần cả năm 2024. Gạo Thái tại Nhật hiện có giá khoảng 3.200 yen/5 kg, thấp hơn đáng kể so với mức trung bình 4.316 yen/5 kg của gạo nội địa trong tuần 3-9/11, mức cao nhất từ tháng 3/2022.

Dù vậy, triển vọng không hoàn toàn thuận lợi cho Thái Lan. Bộ Nông nghiệp Nhật Bản dự kiến giảm 5% sản lượng gạo nội địa trong vụ 2026, khiến giá duy trì ở mức cao, nhưng sự cạnh tranh lại ngày càng gay gắt. Dưới sức ép của thỏa thuận Mỹ - Nhật, Tokyo sẽ tăng 75% lượng gạo nhập khẩu từ Mỹ trong cơ chế tiếp cận tối thiểu miễn thuế. Điều này kéo giảm mạnh hạn ngạch của Thái Lan từ khoảng 300.000 tấn/năm xuống chỉ còn 70.000-80.000 tấn, tạo ra thách thức lớn cho ngành xuất khẩu gạo nước này. Trong khi đó, dù gạo Jasmine tăng trưởng tốt, tổng xuất khẩu gạo Thái sang Nhật vẫn giảm 15% trong 9 tháng đầu năm.

e0b3dc641b3b833cc8cff693859222b0f7ec5200-1764774371789-1764774372125768526668.png
Giá gạo xuất khẩu của Thái Lan chứng kiến đà giảm mạnh. Nguồn: Nikkei Asia.

Sự chênh lệch giữa thị trường Nhật Bản và mặt bằng giá trong nước càng làm rõ khó khăn nội tại của ngành lúa gạo Thái Lan. Theo The Nation, giá lúa trắng phổ thông tại Thái chỉ còn dưới 8.000 baht/tấn, thậm chí lúa mới độ ẩm cao chỉ đạt 5.000-6.000 baht/tấn, thấp hơn mức chi phí sản xuất trung bình 7.200-7.500 baht/tấn.

Trong khi đó, nhìn ở các quốc gia đối thủ khác, điển hình như chi phí sản xuất của Việt Nam chỉ khoảng 6.000 baht/tấn và Ấn Độ khoảng 5.000 baht/tấn, giúp hai nước duy trì lợi thế cạnh tranh lớn. Năng suất lúa Thái Lan hiện thấp nhất ASEAN, chỉ 370-600 kg/rai; còn Việt Nam đạt khoảng 800 kg/rai, thậm chí có giống vượt 1 tấn/rai.

Các chuyên gia cho rằng ngành lúa gạo Thái rơi vào vòng xoáy suy giảm do mô hình chính sách kéo dài nhiều năm nhưng ít đổi mới. Những biện pháp trợ cấp như thế chấp lúa, bảo lãnh thu nhập hay hỗ trợ 1.000 baht/rai đã tiêu tốn 1,2-1,3 nghìn tỷ baht nhưng tạo ra “bẫy trợ cấp”, khiến nông dân thiếu động lực cải thiện năng suất. Chuỗi giá trị từ giống, canh tác đến chế biến bị đánh giá là rời rạc, trong khi nỗ lực phát triển gạo mềm - dòng gạo đang chiếm ưu thế trên thị trường thế giới còn hạn chế.

Phó Giáo sư Aat Pisanwanich, chuyên gia kinh tế quốc tế và ASEAN, cho biết thị trường thế giới đang chuyển mạnh sang tiêu thụ gạo mềm, nhưng Thái Lan chậm thích ứng.

Ông chỉ ra, trong hơn 200 giống lúa Thái, chỉ 10-20% thuộc nhóm lúa mềm; còn Việt Nam có hơn 1.000 giống, với một nửa là lúa mềm, nhiều loại đạt năng suất vượt trội.

Bên cạnh đó, tác động từ Ấn Độ - quốc gia dẫn đầu xuất khẩu gạo thế giới - càng làm giá gạo Thái rơi tự do. Việc Ấn Độ dỡ bỏ hạn chế xuất khẩu gạo trắng từ tháng 9/2024 đã kéo giảm toàn bộ mặt bằng giá thị trường, trong đó gạo trắng chuẩn của Thái có thời điểm chỉ còn 356 USD/tấn, thấp nhất từ năm 2007.

Phó Giáo sư Aat Pisanwanich nhận định, chính sách lúa gạo của Thái Lan trong nhiều năm qua thiếu còn nhiều điều cần khắc phục như nghiên cứu giống hạn chế, chính sách can thiệp giá chưa hiệu quả, trong khi các sáng kiến gạo ít carbon mới chỉ dừng ở mức thử nghiệm. Chuỗi giá trị lúa gạo từ giống - canh tác - thu mua - chế biến vì vậy bị đánh giá là rời rạc và kém hiệu quả.

Trong bối cảnh đó, ông Aat cho rằng, cách làm của Việt Nam và Ấn Độ được xem như những bài học quan trọng cho Thái Lan. Việt Nam theo đuổi chính sách thị trường hóa, không can thiệp giá, đồng thời liên tục đầu tư vào giống mới, kỹ thuật canh tác và các chương trình tối ưu chi phí như “3 giảm, 3 tăng (giảm giống, phân bón, thuốc; tăng năng suất, hiệu quả, thu nhập)”. Những bước đi này cho thấy cải cách giống, giảm chi phí và củng cố chuỗi giá trị là chìa khóa để duy trì sức cạnh tranh.

Hiệp hội Xuất khẩu Gạo Thái Lan ghi nhận giá xuất khẩu gạo trắng chuẩn tháng 10 chỉ còn 356 USD/tấn, giảm 31% so với cùng kỳ và thấp nhất từ năm 2007. Nguyên nhân chính là diễn biến tại Ấn Độ: nước này cấm xuất khẩu một số loại gạo trắng từ tháng 7/2023 để bảo đảm nguồn cung nội địa, nhưng đã dỡ bỏ hạn chế vào tháng 9/2024, kéo giá toàn thị trường đi xuống.

Mai Anh - nguoiquansat.vn

Theo Kiến thức Đầu tư