Vĩ mô

Tín dụng không thể mãi là ‘cỗ xe kéo’ tăng trưởng

Theo GS.TS Trần Thọ Đạt, bức tranh kinh tế 7 tháng đầu năm 2025 cho thấy tín dụng ngân hàng vẫn là động lực ngắn hạn, nhưng mức độ phụ thuộc lớn tiềm ẩn rủi ro chu kỳ. Ông nhấn mạnh cần tái cấu trúc hệ thống tài chính để bảo đảm tăng trưởng bền vững.

Tham luận tại Tọa đàm tham vấn ý kiến chuyên gia về tình hình kinh tế - xã hội và cơ cấu lại nền kinh tế ngày 5/9 do Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội tổ chức, GS.TS Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Kinh tế Quốc dân, cho rằng tín dụng ngân hàng tiếp tục giữ vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nhưng sự phụ thuộc quá lớn đã bộc lộ nhiều giới hạn.

Ông phân tích diễn biến vĩ mô, chỉ ra các rủi ro tiềm ẩn và đề xuất các giải pháp chính sách trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhằm cân bằng giữa mục tiêu tăng trưởng và yêu cầu ổn định hệ thống.

Tín dụng không thể mãi là ‘cỗ xe kéo’ tăng trưởng
GS.TS Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Kinh tế Quốc dân. Ảnh: V-Startup LeCerne.

Theo GS.TS Trần Thọ Đạt, tín dụng hiện vẫn là động lực ngắn hạn chủ đạo, song tỷ lệ tín dụng trên GDP cuối năm 2024 đã vượt 130%, phản ánh sự phụ thuộc lớn của nền kinh tế vào kênh ngân hàng. Ông cảnh báo rằng rủi ro chu kỳ có thể gia tăng khi xuất hiện cú sốc về lãi suất, ngoại hối hoặc bất động sản. Ông cũng viện dẫn kinh nghiệm năm 2011 để nhấn mạnh sự cần thiết phải chuyển dịch dần sang các kênh vốn thị trường như trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu, bảo hiểm và hưu trí nhằm cân bằng cấu trúc tài chính.

Bên cạnh đó, GS.TS Trần Thọ Đạt lưu ý nợ xấu có xu hướng gia tăng trong bối cảnh một số phân khúc bất động sản và trái phiếu cần thời gian tái cơ cấu, trong khi trường hợp đặc thù SCB tiếp tục đòi hỏi nguồn lực xử lý lớn. Ông cho rằng mặc dù mặt bằng lãi suất thấp giúp giảm áp lực trả nợ, nhưng chất lượng tín dụng mới cần được định hướng vào sản xuất, xuất khẩu, chuyển đổi xanh và chuyển đổi số, đồng thời hạn chế dòng vốn chảy vào các hoạt động đầu cơ rủi ro.

Trong 5 tháng cuối năm 2025, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% trở lên, nhu cầu tín dụng và nguồn lực tài chính phải gia tăng mạnh. Theo GS.TS Trần Thọ Đạt, chính sách tiền tệ cần được điều hành theo tam giác mục tiêu gồm kiểm soát lạm phát kỳ vọng quanh mức 4%, ổn định tỷ giá linh hoạt hai chiều để tránh cú sốc và duy trì lãi suất cho vay hợp lý, khoảng 6–7%/năm cho các lĩnh vực ưu tiên. Ông cho rằng để thực hiện các mục tiêu này, Ngân hàng Nhà nước phải vận dụng đồng bộ nghiệp vụ thị trường mở, tín phiếu, hoán đổi và bán ngoại tệ kỳ hạn nhằm điều tiết thanh khoản và ổn định kỳ vọng thị trường.

Về tín dụng, ông nhấn mạnh việc mở hạn mức tăng trưởng cần gắn với điều kiện cụ thể. Chỉ những ngân hàng đáp ứng chuẩn an toàn vốn (CAR) và thanh khoản (LCR) mới được nới hạn mức, đồng thời ít nhất 60–70% phần tín dụng tăng thêm phải hướng vào các lĩnh vực ưu tiên. Ngược lại, tín dụng cho bất động sản đầu cơ, trái phiếu đảo nợ hoặc chứng khoán phái sinh cần được kiểm soát bằng hệ số rủi ro cao hơn hoặc yêu cầu dự phòng bổ sung. Ông cũng đề nghị tăng cường giám sát thị trường trái phiếu doanh nghiệp trong bối cảnh phát hành phục hồi, áp dụng chuẩn công bố thông tin tiệm cận IFRS và bắt buộc xếp hạng tín nhiệm đối với trái phiếu bất động sản quy mô lớn.

Giai đoạn 2026–2030 được ông xác định là thời kỳ bản lề để giảm dần sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng và xây dựng cấu trúc tài chính cân bằng hơn. Mục tiêu đặt ra là đưa tỷ lệ tín dụng trên GDP về mức 100–110% vào năm 2030, đồng thời gia tăng tỷ trọng vốn từ thị trường trái phiếu, cổ phiếu và các quỹ đầu tư. Ông nhấn mạnh sự cần thiết của việc phát triển mạnh các nhà đầu tư tổ chức trong nước như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí và quỹ đầu tư dài hạn nhằm tạo nguồn vốn ổn định.

Khung an toàn vĩ mô theo ông cần được hoàn thiện thông qua việc áp dụng bộ đệm vốn chu kỳ (CCyB) từ 0,5–2%, giới hạn tỷ lệ cho vay trên giá trị tài sản (LTV) và tỷ lệ nợ trên thu nhập (DTI) trong cho vay bất động sản, cùng với việc thực hiện kiểm tra sức chịu đựng (stress test) toàn ngành ít nhất hai lần mỗi năm. Song song, thị trường trái phiếu doanh nghiệp cần chuẩn hóa bản cáo bạch, duy trì công bố thông tin liên tục và gắn cơ chế định giá với đường cong lợi suất chuẩn của trái phiếu Chính phủ. Đồng thời, ông đề xuất củng cố lá chắn ngoại hối, duy trì dự trữ ở mức 3,5–4 tháng nhập khẩu và phát triển công cụ phái sinh để doanh nghiệp chủ động phòng ngừa rủi ro tỷ giá.

Trong tầm nhìn đến năm 2030, ông cho rằng hệ thống tài chính cần định hướng dòng vốn vào các lĩnh vực tạo giá trị gia tăng cao, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Tỷ lệ trái phiếu xanh phải đạt 10–12% tổng phát hành, dư nợ tín dụng xanh chiếm 15% toàn hệ thống, trong khi chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) tăng từ mức 0,5% GDP hiện tại lên 1% vào năm 2028 và 1,5% vào năm 2030.

Song song với đó, bao trùm tài chính được coi là một trụ cột quan trọng. Mục tiêu là nâng tỷ lệ người trưởng thành có tài khoản ngân hàng từ khoảng 74% hiện nay lên 85% vào năm 2028 và 90% vào năm 2030. Việc mở rộng ngân hàng số, ví điện tử và dịch vụ tài chính vi mô được xác định là nền tảng để tăng khả năng tiếp cận vốn, thúc đẩy tiêu dùng, khuyến khích đầu tư và giảm chênh lệch trong tiếp cận dịch vụ tài chính.

Trường Thanh - nguoiquansat.vn

Theo Kiến thức Đầu tư