Vĩ mô

TS Cấn Văn Lực: Muốn bứt phá, Việt Nam phải đổi mới mô hình phát triển và tăng tốc huy động vốn

TS Cấn Văn Lực cho rằng để Việt Nam bứt phá, mô hình phát triển phải đổi mới mạnh mẽ, chuyển trọng tâm sang năng suất – khoa học – công nghệ, đồng thời tăng tốc huy động và phân bổ vốn.

Tại Diễn đàn Triển vọng thị trường vốn Việt Nam 2026 với chủ đề “Bứt phá trên nền tảng mới”, TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách của Thủ tướng, cho rằng mô hình phát triển của Việt Nam trong thời gian tới không chỉ nằm ở tăng trưởng kinh tế, mà còn phải hài hòa với ổn định chính trị, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng quản trị.

Ảnh màn hình 2025-12-12 lúc 15.39.05
TS Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách của Thủ tướng.

Theo ông, mô hình phát triển mới cần hội tụ bốn điểm chính: (i) tăng trưởng nhanh và bền vững; (ii) chuyển dịch trọng tâm sang năng suất, khoa học – công nghệ; (iii) kết hợp đồng thời ba yếu tố: đầu tư, tiếp thu công nghệ, đổi mới sáng tạo; (iv) huy động và phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả.

Việt Nam muốn phát triển nhanh thì phải đầu tư mạnh mẽ hơn vào khoa học – công nghệ, đồng thời không thể thiếu vai trò của vốn. Theo TS Lực, nhiều nước từng tăng trưởng cao ghi nhận vốn đóng góp tới 40–50%.

Việt Nam hiện mới đạt tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 33% GDP, trong khi nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế xanh, ứng phó khí hậu và đổi mới công nghệ ngày càng lớn. Bởi vậy, Việt Nam cần có Quỹ khẩn cấp quốc gia và duy trì tốc độ tăng vốn đầu tư khoảng 10% mỗi năm.

Theo TS Lực, Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới trong bối cảnh thế giới tăng trưởng chậm, nhiều rủi ro và bất định. Bên cạnh đó, kinh tế dễ bị tổn thương trước biến động môi trường và chuỗi cung ứng. Hệ thống huy động – phân bổ vốn còn nhiều điểm nghẽn. Các quốc gia đang sử dụng nhiều chính sách tài chính mới, đòi hỏi Việt Nam phải thích ứng nhanh. Tài chính xanh, tài sản số… cũng đặt ra những yêu cầu hoàn toàn mới.

Trong giai đoạn 2026 - 2030 và hướng đến 2045, vốn nhà nước giảm dần, vốn tư nhân tăng mạnh lên khoảng 57%, FDI đóng góp 16 - 17%. Việt Nam cần đẩy nhanh tốc độ tăng vốn, hướng tới mức tăng trưởng vốn 13- 15% như các nền kinh tế Đông Á thời kỳ cất cánh.

Tuy nhiên, vị chuyên gia cũng khẳng định thị trường vốn hiện còn nhỏ: vốn cổ phiếu chỉ chiếm 10% GDP (năm cao nhất đạt 24%), ngân hàng vẫn cung ứng tới 40% vốn cho nền kinh tế. Trong khi đó, tiết kiệm của người dân khá cao đạt 37% (dù vẫn thấp hơn Trung Quốc 46%) nhưng môi trường đầu tư chưa thật sự thông thoáng khiến dòng tiền chưa chảy mạnh vào sản xuất, đổi mới.

"Quy mô tài chính của Việt Nam tăng khá nhanh trong 16 năm qua, nhưng rủi ro liên thông giữa các thị trường vẫn lớn. Hệ thống ngân hàng chiếm tỷ trọng cao, còn thị trường vốn và các định chế phi ngân hàng phát triển chưa tương xứng. Ngoài ra, những vấn đề như an ninh dữ liệu, hạ tầng tài chính, báo cáo theo chuẩn quốc tế, giáo dục tài chính và bảo vệ người tiêu dùng tài chính… vẫn còn hạn chế", ông Lực nói.

Đáng chú ý, có hơn 2.700 dự án đang bị vướng mắc, làm “đóng băng” một lượng vốn rất lớn. Cùng với đó là thất thoát do tham nhũng, lãng phí và xu hướng đầu cơ vàng – bất động sản.

Vì thế, ông Lực đề xuất hoàn thiện thể chế, phát triển thị trường vốn cân bằng hơn và giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng; sớm vận hành thị trường carbon, thúc đẩy thị trường tài sản số, tăng minh bạch thị trường; duy trì ổn định vĩ mô để dòng vốn chuyển từ đầu cơ sang sản xuất.

Song song với đó là cải thiện thủ tục hành chính và nâng cao năng lực quản lý tài chính theo chuẩn quốc tế; thành lập các quỹ mới như quỹ chuyển đổi xanh, quỹ đổi mới sáng tạo, quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng một chiến lược tổng thể về huy động, phân bổ, sử dụng nguồn lực.

Khúc Văn - nguoiquansat.vn

Theo Kiến thức Đầu tư