Châu Á

Từ Trung Quốc, Ấn Độ đến Việt Nam: Cuộc chiến thuế 2.0 mở ra trật tự thương mại mới như thế nào?

Mới đây, PGS.TS Nguyễn Thường Lạng đã đưa ra những phân tích sâu rộng về loạt thuế đối ứng mới của Tổng thống Mỹ Donald Trump, cũng như tác động của chúng tới quan hệ thương mại Mỹ - Trung Quốc cũng như các đối tác khác.

Trong bối cảnh Tổng thống Mỹ Donald Trump liên tiếp tung ra các gói thuế quan đối ứng với nhiều quốc gia, trong đó có Trung Quốc, Ấn Độ và cả Việt Nam, bức tranh thương mại toàn cầu đang đứng trước những thay đổi khó lường.

Mức thuế khác nhau áp lên từng thị trường không chỉ cho thấy sự tính toán trong chiến lược của ông Trump, mà còn đặt ra hàng loạt thách thức và cơ hội cho các nền kinh tế mới nổi.

Để làm rõ hơn những tác động của chính sách thuế quan mới, cũng như dự báo xu hướng đàm phán thương mại Mỹ - Trung và triển vọng đối với Việt Nam, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn với PGS.TS Nguyễn Thường Lạng - chuyên gia kinh tế quốc tế, giảng viên cao cấp tại Viện Thương mại và Kinh tế Quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân.

Trong cuộc trao đổi, ông đã phân tích cách ông Trump sử dụng thuế quan như công cụ điều chỉnh chuỗi cung ứng toàn cầu, tác động đến các nền kinh tế lớn như Trung Quốc hay Ấn Độ, đồng thời chỉ ra những thách thức lẫn cơ hội đối với doanh nghiệp trong bối cảnh chính sách thuế ngày càng phân hóa.

Từ Trung Quốc, Ấn Độ đến Việt Nam: Cuộc chiến thuế 2.0 mở ra trật tự thương mại mới như thế nào? - ảnh 1

Vừa qua, ông Trump đã công bố loạt thuế đối ứng mới với hàng chục quốc gia, với mức thuế khác nhau cho từng thị trường. Theo ông, việc áp dụng mức thuế không đồng đều này cho thấy điều gì về chiến lược thương mại của ông Trump? Đâu là thông điệp mà chính quyền ông Trump muốn gửi đi?

Theo tôi, ông Trump đã lựa chọn cách tiếp cận khá rõ ràng và tường minh, dựa trên nguyên tắc “có đi có lại” trong thương mại quốc tế. Một cơ sở quan trọng là số liệu cho thấy nhiều quốc gia có thặng dư thương mại lớn với Mỹ, vì vậy việc áp thuế của ông nhắm đến mục tiêu bổ sung nguồn thu ngân sách để giảm thâm hụt, đồng thời tạo thêm việc làm, bảo vệ an ninh quốc gia và kiềm chế các đối thủ cạnh tranh trực tiếp - đặc biệt là Trung Quốc.

Có thể thấy thuế quan lần này còn nhằm mục tiêu phát huy, khai thác vị thế cường quốc số 1 của nước Mỹ mà không có quốc gia nào có thể thay thế được. Một mình ông Trump có thể ảnh hưởng đến toàn thế giới vì nước Mỹ có quy mô GDP lớn, công nghệ mạnh và khả năng chi phối an ninh toàn cầu.

Từ Trung Quốc, Ấn Độ đến Việt Nam: Cuộc chiến thuế 2.0 mở ra trật tự thương mại mới như thế nào? - ảnh 2

Tôi cho rằng chính sách áp thuế này đang bước vào giai đoạn 2. Nếu giai đoạn 1 tập trung vào đàm phán với nhiều quốc gia, thì giai đoạn 2 sẽ đi vào đánh thuế theo cơ cấu - tức là chọn những mặt hàng có khả năng ảnh hưởng lớn đến chiến lược phát triển của thế giới, những lĩnh vực mà các đối thủ có khả năng vượt Mỹ.

Thứ 2 là việc lựa chọn cơ cấu này cũng để nhằm mục đích phân loại, xem những đối tác nào là thân thiện hay không thân thiện với Mỹ. Với những nước đã có thỏa thuận thỏa đáng với Mỹ thì mức thuế nó sẽ khác đi so với những đối tác cứng rắn, ít nhượng bộ.

Nói cách khác, việc đánh thuế này đang bước vào giai đoạn sâu hơn, đi vào những tác động có tính chất gốc rễ, cơ bản của công nghệ - kinh tế - thương mại toàn cầu, và thậm chí là cả trật tự chính trị – kinh tế mới.

Ông Trump đề cập đến mức thuế lên tới 250% đối với dược phẩm, bên cạnh đó là đe dọa áp thuế với chip bán dẫn. Theo ông, tại sao 2 mặt hàng này lại được coi như những trường hợp đặc biệt. Và tác động đến chuỗi cung ứng sẽ ra sao?

Dược phẩm là mặt hàng có lợi nhuận rất cao, trong khi Ấn Độ hiện là một trong những nước xuất khẩu dược phẩm lớn nhất thế giới với giá rẻ. Thêm vào đó, Mỹ từng yêu cầu Ấn Độ giảm thương mại với Nga nhằm làm suy yếu Moscow, nhưng New Delhi không tuân theo đề xuất của Mỹ.

Do đó, việc Mỹ áp thuế cao với dược phẩm là để nhằm điều chỉnh hành vi của Ấn Độ. Bởi vì Ấn Độ có thể không xuất khẩu sang Mỹ vì bị thuế chẳng hạn, nhưng họ lại mượn được đường của một nước thứ 3 và đi vòng qua đó.

Tức là, đợt thuế này là đánh thuế lan rộng, nhằm vào những đối tác có khả năng mượn đường của một đối tác thứ 3 để tránh thuế. Mức thuế này gọi là thuế chống lẩn tránh các biện pháp phòng vệ, tự vệ nên nó phải là mức thuế rất cao.

Đối với chip bán dẫn, đây là mặt hàng chiến lược. Mỹ muốn tận dụng thuế quan để thu hút đầu tư trực tiếp vào sản xuất trong nước và tạo thêm việc làm, ví dụ như Apple đã hứa sẽ đầu tư 600 tỷ USD vào Mỹ. Các nước khác mà muốn bán hàng cho Mỹ - nhờ đó mà thu lợi nhiều - thì họ phải nộp thuế, phải có đóng góp cho nước này.

Đây là một bài toán mà tôi nghĩ ông Donald Trump cũng đã lựa chọn rất kỹ vì chip sẽ là mặt hàng chiến lược trong tương lai và khả năng mang lại lợi nhuận rất lớn.

Bên cạnh đó, việc đánh thuế này sẽ làm cho mặt hàng chip có sự chuyển dịch chuỗi cung ứng và đưa vào nước Mỹ. Tôi nghĩ đây là một cách làm rất thông minh, mà như tôi nói lúc nãy việc đánh thuế bây giờ sẽ đi vào chiều sâu hơn, đi vào theo cơ cấu chứ không làm như trước nữa.

Về tác động chuỗi cung ứng, chắc chắn sẽ có sự dịch chuyển. Với dược phẩm, sản xuất có thể chuyển hướng sang các nước ngoài Mỹ để tránh thuế, như sang châu Âu, châu Á - Thái Bình Dương hoặc châu Phi.

Chip bán dẫn cũng vậy. Các công ty có thể buộc phải điều chỉnh lại cơ cấu chuỗi cung ứng, thay được bản chất của chuỗi cung ứng, mô hình của chuỗi cung ứng để cho chuỗi cung ứng này nó thích nghi với điều kiện mới.

Họ có thể xây dựng chuỗi cung ứng khoa học hơn, đa dạng hơn, tìm nguồn rẻ hơn rồi phát triển các lĩnh vực, sàn giao dịch công nghệ, tận dụng những con chip để có lợi thế cao hơn…

Điều này có thể thúc đẩy các mô hình chuỗi cung ứng đa dạng, gắn chặt hơn với tài chính công nghệ, tài chính gắn với ví số hóa, tài chính số, đồng tiền số, cổ phiếu số, chứng khoán số…

Tất cả sẽ tạo điều kiện để cung cấp nguồn vốn tốt cho chuỗi cung ứng. Thị trường về chip chắc chắn là còn bùng nổ và sẽ có xu hướng phát triển rất tốt. Nên dù mức thuế nào đi chăng nữa, tôi nghĩ ngành chip vẫn sẽ phát triển mạnh vì nó gắn với xu thế đổi mới công nghệ toàn cầu.

Một trong những mục tiêu khi áp thuế quan của ông Trump là đem sản xuất trở lại Mỹ và giảm thâm hụt thương mại, nhưng giới chuyên gia lại cảnh báo thuế sẽ đẩy nước này rơi vào suy thoái và người tiêu dùng Mỹ sẽ là bên chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào? Liệu các doanh nghiệp Mỹ có thể tận dụng lợi thế này để tăng sản xuất nội địa, hay sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực bởi giá nguyên liệu đầu vào tăng?

Tôi nghĩ mọi biện pháp kinh tế đều có tính 2 mặt. Khi thuế nhập khẩu tăng, giá hàng hóa trong nước cũng tăng và kéo theo lạm phát. Mà lạm phát cao thì nó lại đòi hỏi sức gánh chịu của các doanh nghiệp rất lớn cho nên có khả năng rơi vào suy thoái.

Theo tôi, ở đây nền kinh tế vẫn đi theo chu kỳ căn bản là nếu đánh thuế nhập khẩu thì phải chịu đánh đổi bằng suy thoái, lạm phát cao, đời sống người dân có thể bị khó khăn hơn. Hàng hóa từ các đối tác bị dồn ứ, thị trường vận hành thiếu ổn định.

Tuy vậy, tôi cho rằng ông Trump có thể chấp nhận rủi ro ngắn hạn để đổi lấy lợi ích dài hạn: đưa việc làm trở lại Mỹ, buộc các nước điều chỉnh chính sách thương mại, và tạo thêm nguồn đầu tư vào nền kinh tế Mỹ. Như vậy, suy thoái là một cái giá có thể chấp nhận được trong thời gian ngắn và tôi nghĩ đội tư vấn chiến lược của ông Trump đã tính đến điều này.

Để mà so sánh giữa việc đánh thuế và không đánh thuế, thì ở góc độ của Mỹ, tôi nghĩ đánh thuế vẫn phù hợp hơn. Nếu để thả lỏng hoàn toàn, nước Mỹ sẽ dễ bị các nền kinh tế khác như Trung Quốc, EU, hay thậm chí đồng minh như Hàn Quốc, Nhật Bản chiếm hết những khoảng giá trị mà lẽ ra người Mỹ được hưởng, đồng thời việc làm trong nước sẽ bị thu hẹp.

Việc áp thuế giúp sản xuất trong nước có cơ hội mở rộng, qua đó cải thiện sức khỏe của doanh nghiệp Mỹ.

Tôi cho rằng ông Trump sẵn sàng chấp nhận một mức suy thoái kinh tế nhất định để đổi lấy lợi ích dài hạn. Khi thuế có hiệu lực từ cuối tháng 8, giá hàng nhập khẩu vào Mỹ sẽ đồng loạt tăng: từ 19% với Thái Lan, Việt Nam, 20% với Indonesia, rồi với EU và cả Nhật Bản. Điều này chắc chắn khiến mặt bằng giá cả chung tại Mỹ tăng thêm khoảng 10 - 15%.

Áp lực này sẽ rất lớn. Nếu doanh nghiệp trong nước không nhanh chóng cơ cấu lại sản xuất, không đáp ứng kịp nhu cầu thay thế hàng nhập khẩu, nền kinh tế Mỹ hoàn toàn có thể rơi vào tình trạng suy thoái hoặc trì trệ. Một số chuỗi cung ứng cũng có nguy cơ đứt gãy do chi phí tăng quá cao.

Từ Trung Quốc, Ấn Độ đến Việt Nam: Cuộc chiến thuế 2.0 mở ra trật tự thương mại mới như thế nào? - ảnh 3

Mặt khác, tôi nghĩ các doanh nghiệp Mỹ cũng đã tính đến phương án này rồi. Nếu như giá nguyên liệu tăng lên 19-20%, họ phải tìm cách thích ứng - ví dụ đẩy mạnh tự động hóa, ứng dụng công nghệ, robot hóa để cắt giảm chi phí – thì sẽ có cơ hội nâng cao năng suất, mở rộng sản xuất và củng cố vị thế cạnh tranh

Còn nếu không thích ứng được, họ sẽ chịu gánh nặng chi phí, buộc phải thu hẹp sản xuất rồi cộng với đó là thất nghiệp. Tất cả những yếu tố đó làm cho thị trường lao động trở nên rối loạn, thị trường việc làm cũng thay đổi, dẫn đến chi phí sinh hoạt đắt đỏ.

Do đó, nếu như không tận dụng được cơ hội này mà nó lại trở thành thách thức, doanh nghiệp Mỹ nhiều khi không tồn tại được.

Doanh nghiệp Mỹ bán hàng ra nước ngoài thì khó đọ lại được với hàng nước khác, mà hàng nước khác không bán sang Mỹ thì họ có thể giảm rất thấp, thành ra Mỹ lại ế hàng. Cái đó sẽ trở thành gánh nặng lớn, nên hàng Mỹ tôi đánh giá là sẽ khá khó cạnh tranh. Vì vậy, Mỹ cần phải tìm kiếm những sản phẩm có tính độc đáo, khác biệt và có khả năng thu được lợi nhuận cao.

Những quốc gia đạt được thỏa thuận như Nhật, Hàn, Anh đều phải chấp nhận đầu tư lớn vào Mỹ: EU cam kết 600 tỷ USD, Nhật cam kết 550 tỷ USD… Ông đánh giá vai trò của đầu tư trong thương lượng như thế nào? Trong dài hạn, ông có nghĩ rằng mô hình "giảm thuế đổi lấy đầu tư lớn vào Mỹ" sẽ trở thành công cụ chính trong thương mại quốc tế dưới thời ông Trump?

Theo tôi, dòng vốn đầu tư quốc tế có thể coi là một sự thay thế tốt hơn cho thương mại. Nếu không bán được hàng thì hoàn toàn có thể chuyển hướng sang đầu tư. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng trong một cuộc thương lượng thành công: dù xuất khẩu có thể giảm, nhưng nếu tăng được đầu tư vào Mỹ thì vẫn mang lại lợi ích.

Tôi nghĩ việc ông Trump sử dụng chiến lược đầu tư vào Mỹ là một trong những cách làm hay nhất. Một là xê dịch được trình độ nâng cao, giải quyết vấn đề việc làm ở Mỹ, hai nữa là tận dụng chính sách khuyến khích đầu tư với giá đất, giá năng lượng, chi phí cơ sở vật chất ở nhiều tiểu bang khá rẻ.

Nhờ đó, vốn đầu tư tại Mỹ sẽ sinh lợi cao nhờ thị trường tiêu thụ rộng lớn. Hạn chế chủ yếu là chi phí lao động ở Mỹ cao, nhưng nếu đầu tư quy mô lớn thì tỷ suất sinh lời vẫn hấp dẫn.

Thực tế là nhiều nước đã đầu tư vào Mỹ, số liệu thống kê từ UNCTAD (Ủy ban Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển) cho thấy Mỹ nhiều năm liền thu hút từ 160 – 220 tỷ USD vốn FDI - đứng đầu thế giới, rồi mới đến Trung Quốc.

Điều đó có nghĩa là đầu tư vào Mỹ thu lợi rất lớn nhưng nó sẽ đòi hỏi rất nhiều những chi phí khác. Nếu nhà đầu tư nước ngoài tin tưởng vào môi trường này, thì đây vẫn là địa điểm lý tưởng.

Các doanh nghiệp Việt Nam cũng nên nghĩ đến phương án này. Chúng ta cũng nên tìm cách đầu tư vào Mỹ, tìm kiếm những mặt hàng có khả năng sản xuất ở Việt Nam. Ví dụ, một số mặt hàng chế tạo, dệt may, gỗ – vốn là thế mạnh của Việt Nam – nếu tổ chức được chuỗi cung ứng hiệu quả thì đầu tư vào Mỹ sẽ sinh lợi không kém gì ở trong nước.

Việt Nam có lợi thế lao động rẻ, trong khi ở Mỹ chi phí nhân công cao gấp 2–3 lần. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp tại Mỹ giúp giảm đáng kể chi phí vận tải, logistics và mở ra cơ hội tiếp cận thị trường rộng lớn. Tôi nghĩ đây có thể là một cơ sở để Việt Nam nâng cao năng lực đàm phán với Mỹ, thúc đẩy một giai đoạn hợp tác phát triển mới.

Về lâu dài, dưới thời ông Trump, chính sách thuế vẫn sẽ là công cụ quan trọng. Nếu kinh tế Mỹ không suy thoái quá nặng vì thuế và tiếp tục duy trì được tăng trưởng, ông Trump chắc chắn sẽ tiếp tục theo đuổi cuộc chiến thuế này.

Còn để nhìn tổng thể thì tự do hóa vẫn là xu hướng chung của thế giới. Từ năm 1947 khi hiệp định GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại) ra đời cho đến các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, nhiều dòng thuế đã về mức 0%. Cho nên tôi nghĩ xu hướng tự do hóa vẫn là xu hướng cơ bản. Bảo hộ chỉ mang tính nhất thời.

Hiện Mỹ đang gánh thâm hụt ngân sách tới 34 nghìn tỷ USD, một con số rất lớn. Trong đàm phán vừa qua, tôi ước tính nước Mỹ mới chỉ lấy được từ châu Âu khoảng 1 nghìn tỷ USD, Nhật Bản khoảng 1 nghìn tỷ USD, Hàn Quốc khoảng 300 - 400 tỷ USD rồi đầu tư từ các nước Trung Đông. Tổng số mới được có 7 nghìn tỷ USD.

Ông Trump sẽ còn phải tìm nhiều cách khác để cân bằng. Do đó, thuế quan vẫn là công cụ duy trì quan trọng, nhưng nếu các đối tác muốn chơi theo kiểu “ngang bằng thực sự” trong lợi ích, Mỹ sẽ có thể giảm thuế.

Hoặc như bây giờ Mỹ và Việt Nam chẳng hạn, chúng ta thâm hụt với Mỹ lên tới 136 tỷ USD. Nhưng bây giờ chúng ta thu hẹp lại khoảng 50 - 60 tỷ USD, thậm chí là thấp hơn nữa, chắc chắn nước Mỹ sẽ đưa mức thuế nước ta xuống mức thấp hơn. Tôi nghĩ là chúng ta cần phải tính đến lợi ích của cả 2 bên, cách làm đấy sẽ rất hay.

Căng thẳng Mỹ - Trung là chủ đề rất nóng. Hiện tại nội tại kinh tế Trung Quốc đang đối mặt với nhiều áp lực như tăng trưởng chậm, thị trường bất động sản lao đao, niềm tin tiêu dùng yếu. Theo ông, Bắc Kinh có đủ dư địa để nhượng bộ Mỹ trong các điều kiện thuế quan, hay sẽ tiếp tục giữ lập trường cứng rắn?

Ở đây nó có những khía cạnh liên quan đến về vị thế lãnh đạo của nước Mỹ và mối đe dọa của Trung Quốc. Nếu Trung Quốc muốn đạt được vị thế lãnh đạo của Mỹ trong vòng 5 năm tới, họ sẽ khó chấp nhận mức thuế và có xu hướng trả đũa.

Mặt khác, trong vòng 5-7 năm tới, Trung Quốc thấy là còn chưa thể lãnh đạo thế giới được thì việc nhượng bộ ở mức độ nhất định là cần thiết để cứu lấy kinh tế trong nước. Đấy là bài toán đánh đổi giữa vị thế lãnh đạo với sức chịu đựng của nền kinh tế Trung Quốc.

Tôi nghĩ là trong vòng 5-7 năm tới Trung Quốc chưa thể lãnh đạo thế giới như Mỹ bây giờ được, nên Trung Quốc chắc chắn sẽ nhượng bộ. Tất nhiên là họ không nhân nhượng hoàn toàn, vẫn có trả đũa nhưng là trả đũa cục bộ. Bởi quá mạnh tay thì Mỹ có thể tẩy chay hàng hóa Trung Quốc.

Năm ngoái, Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ tới 524 tỷ USD; nếu bị áp thuế cao như Ấn Độ thì chắc chắn họ sẽ không chịu nổi. Khi đó, hàng hóa Trung Quốc buộc phải bán sang nước khác với giá rẻ, gây thiệt hại lớn. Vì vậy, Bắc Kinh sẽ tính toán kỹ, chọn cách xử lí có chừng mực, mềm mỏng hơn và có thể chấp nhận nhượng bộ ở một số lĩnh vực như đầu tư.

Mỹ cũng đã có kinh nghiệm làm việc với Trung Quốc. Trước đây, khi gia nhập WTO, Bắc Kinh cam kết bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ và chống trợ cấp, nhưng trên thực tế vẫn vi phạm. Mỹ coi đó là thất hứa. Nếu Trung Quốc lặp lại, chắc chắn sẽ bị áp thuế rất nặng. Do đó, lần này Bắc Kinh buộc phải điều chỉnh cách tiếp cận, thể hiện thiện chí hơn để tránh kịch bản bất lợi.

Ông Trump áp mức thuế rất cao lên Ấn Độ, tới 50%. Ngoài mức thuế đối ứng 25% còn thuế trừng phạt vì tiếp tục mua dầu Nga. Thông điệp mà ông Trump muốn truyền đi là gì? Ông dự đoán tình hình sắp tới sẽ ra sao? Liệu căng thẳng này có hạ nhiệt hay không?

Tôi nghĩ thông điệp ông Trump muốn nhấn mạnh là các quốc gia cần đặt vị thế của mình trong bàn cờ quốc tế, đồng thời tôn trọng giá trị hòa bình và an ninh nhân loại, tính đến sự tồn vong của con người.
Nếu vì lợi ích trước mắt mà nuôi dưỡng một nền kinh tế khác, ông ấy sẽ buộc phải ra tay, trong khi mỗi ngày thế giới có tới hàng nghìn người chết vì chiến tranh. Điều đó rất đau đớn, nên ông muốn làm Nga yếu đi để chiến tranh sớm kết thúc, giảm thương vong.

Còn càng kéo dài cuộc chiến thì nhiều khi chi phí trả giá sẽ còn lớn hơn, đau thương mất mát sẽ còn nhiều hơn nên tôi nghĩ ý ông Trump là chúng ta nên coi hòa bình và ổn định của nhân loại là những giá trị cao cả, nên là ưu tiên trước so với lợi ích kinh tế đơn thuần.

Từ Trung Quốc, Ấn Độ đến Việt Nam: Cuộc chiến thuế 2.0 mở ra trật tự thương mại mới như thế nào? - ảnh 4

Với cách làm của ông Trump, ông thường thể hiện rất mạnh tay nhưng ông Putin biết ông Trump thực chất không làm đến cùng.

Ví dụ ông đưa 20 chiếc tàu ngầm hạt nhân đến nhưng không tấn công Nga thật. Nga hiểu điều đó, nên vẫn theo đuổi chiến lược đến cùng, chỉ nhân nhượng một phần chứ không dừng hẳn.

Chẳng hạn, có thể Ấn Độ sẽ giảm mua dầu Nga, thay bằng châu Phi hoặc qua bên thứ ba. Hoặc Nga có thể đàm phán với Mỹ để chấm dứt chiến tranh kèm điều kiện, ví dụ giữ lại những vùng đã kiểm soát. Quan điểm của ông Putin, theo tôi, chắc chắn không thay đổi nhưng ông sẽ chấp nhận nhượng bộ ở mức cục bộ. Tuy nhiên, cần lưu ý chiến tranh không thể kết thúc ngay được.

Về phía Ấn Độ, chắc chắn họ sẽ phải chịu sức ép từ Mỹ. Sau khi bị đánh thuế mạnh, Ấn Độ có thể buộc phải nhân nhượng, như tìm nguồn dầu từ nơi khác, dù chưa có chỗ nào rẻ như Nga nên họ cũng đang lưỡng lự.

Nhưng chắc chắn Ấn Độ sẽ điều chính hướng chiến lược của mình để nhập khẩu dầu từ nước khác hoặc giảm mức mua dầu, đồng thời tạo việc làm cho Mỹ để xoa dịu căng thẳng. Nếu không, lợi ích của Ấn Độ sẽ bị tổn hại rất lớn.

So với Ấn Độ thì Việt Nam đang có lợi thế hơn với mức thuế 20%. Vậy đây có phải là cơ hội để Việt Nam tăng sức cạnh tranh trong việc thu hút FDI hay không? Và doanh nghiệp Việt cần làm gì để tận dụng tối đa cơ hội này?

Điều này là hoàn toàn đúng, tôi nghĩ Việt Nam vẫn có thể chịu được mức thuế 20%. Chúng ta có thể tiết kiệm chi phí về công trình, chi phí môi trường kinh doanh, chi phí thủ tục nhờ đã đơn giản hóa nhiều quy trình.

Điều đó sẽ giúp giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp, từ đó đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chắc chắn sẽ tăng lên bởi môi trường đầu tư đã được cải thiện.

Dòng vốn FDI vào Việt Nam có lợi thế ở chỗ thuế nước ta ở mức vừa phải, đồng thời chúng ta tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nhờ vậy, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam không chỉ xuất sang Mỹ mà còn vào châu Âu và nhiều thị trường khác, khiến Việt Nam trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn.

Mỹ chỉ là một phần, các khu vực khác cũng được các nhà đầu tư tính đến. Đây chính là một lợi thế đáng kể.

Bên cạnh đó, Việt Nam còn có vị trí gần Trung Quốc nên việc nhập linh kiện từ Trung Quốc sang Việt Nam rất thuận lợi và có chi phí thấp. Đây cũng là yếu tố quan trọng để thu hút FDI, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất chế tạo. Do vậy, tôi tin rằng dòng vốn đầu tư vào Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng, kể cả khi Mỹ áp mức thuế 20%.

Vấn đề là chúng ta cần điều chỉnh quy tắc xuất xứ, nâng tỷ lệ giá trị sản xuất tại Việt Nam để tránh rơi vào diện bị áp thuế chống gian lận xuất xứ hay các loại thuế liên quan đến chuyển tài.

Về phía doanh nghiệp Việt Nam, việc đầu tiên là tăng cường nghiên cứu thị trường, kể cả việc thâm nhập sâu hơn vào thị trường Mỹ. Doanh nghiệp phải tìm cách vừa thu hút đầu tư từ Mỹ vào Việt Nam, vừa mở rộng đầu tư sang Mỹ.

Thứ hai là đa dạng hóa thị trường một cách quyết liệt, khai thác triệt để các thị trường khác ngoài Mỹ. Và thứ ba nữa là phải đổi mới mô hình kinh doanh, tận dụng xu hướng chuyển đổi số, xanh để tiết kiệm chi phí, nâng cao tính thân thiện của sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật. Đồng thời, doanh nghiệp cần tiết kiệm chi phí logistics, hành chính, năng lượng, quản lý…

Nói cách khác, doanh nghiệp vừa phải tiết kiệm chi phí, vừa tăng cường nghiên cứu thị trường, đa dạng hóa xuất khẩu. Song song, họ cần đổi mới công nghệ, sản phẩm, xây dựng thương hiệu mạnh. Đây sẽ là những yếu tố tạo nên sức bật mới cho doanh nghiệp Việt Nam.

Ngoài ra, chúng ta cần chú trọng đầu tư vào những ngành công nghệ mới như chip bán dẫn, AI. Các doanh nghiệp trong nước cũng nên liên kết với nhau, liên kết với doanh nghiệp FDI và các tập đoàn lớn để tạo ra sức mạnh tập thể, tạo sức cộng hưởng lớn. Tôi tin rằng nếu làm tốt những điều này, doanh nghiệp Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục phát triển mạnh.

Trân trọng cảm ơn ông!

Thiên Kim - nguoiquansat.vn

Theo Thị trường tài chính