Cuộc chiến chống thực phẩm bẩn gian nan như một cuộc đấu “không cân sức”, khi lực lượng chuyên ngành còn thiếu thẩm quyền và nhân lực, trong khi gian thương lại ngày càng tinh vi, khiến việc xử lý vi phạm trở nên chậm chạp và đầy rào cản.
Nghịch lý thực phẩm bẩn: Bắt được nhưng không tiêu hủy được ngay
Tại tọa đàm "Triệt tận gốc hàng giả, hàng kém chất lượng: Bảo vệ người dân và doanh nghiệp", chiều 11/6, bà Phạm Khánh Phong Lan, đại biểu Quốc hội, Giám đốc Sở An toàn thực phẩm TP.HCM, nhấn mạnh, trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, hàng giả, hàng nhái không chỉ là vấn đề kinh tế, mà trực tiếp đe dọa đến sức khỏe, tính mạng con người. Tuy nhiên, cuộc chiến chống hàng giả hiện vẫn thiên về thế “thiếu cân sức”.
“Nghe qua, nhiều người tưởng thanh tra, quản lý thị trường có nhiều quyền. Nhưng thực tế, thủ tục kiểm tra rất rườm rà, để ra được quyết định xử phạt đã khó, sau đó còn bị khiếu nại, phản đối kéo dài. Trong khi đó, lực lượng công an có quyền điều tra, khám xét nhà, nên họ phát hiện được nhiều vụ án hơn cũng là điều dễ hiểu,” bà Lan nói.
Trong nhiều vụ việc, dù phát hiện hàng vi phạm, các đơn vị quản lý chuyên ngành vẫn phải “đứng ngoài cửa” vì không có thẩm quyền tiếp cận hiện trường nhanh chóng.
Bà Lan kể lại một vụ việc “ám ảnh cả nghề” diễn ra cách đây 7 năm: Ban Quản lý An toàn thực phẩm TP.HCM phối hợp phát hiện và tạm giữ 20 tấn thịt heo bốc mùi hôi thối đang được trữ trong kho lạnh tại một cơ sở kinh doanh trên địa bàn.
“Lẽ ra, với hàng bẩn như thế, phải tiêu hủy ngay để ngăn chặn nguy cơ tuồn ra thị trường. Nhưng theo quy định, chủ hàng được phép bổ sung giấy tờ chứng minh nguồn gốc trong vòng 3 ngày. Trong thời gian đó, để đảm bảo an toàn, chúng tôi buộc phải thuê xe tải, huy động nhân lực di dời toàn bộ số hàng sang kho khác và lấy mẫu đi kiểm nghiệm,” bà Lan nhớ lại.
![]() |
Viêc phòng chống hàng gian, hàng giả là trách nhiệm của các cơ quan chức năng, của các doanh nghiệp và của chính người tiêu dùng. Ảnh: Độc Lập. |
Tuy nhiên, rắc rối chưa dừng lại ở đó. Sau khi có kết quả kiểm nghiệm xác định thịt không đạt chất lượng, chủ hàng trốn mất. Ban Quản lý lại phải tiếp tục lưu kho, chờ Chủ tịch UBND huyện ký quyết định tiêu hủy. Mất thêm 7 ngày.
“Có quyết định rồi, lại phải làm quy trình đấu thầu để chọn đơn vị tiêu hủy. Mà chi phí tiêu hủy cưỡng chế rất cao và cơ quan xử lý, tức chúng tôi lại phải chịu toàn bộ khoản đó. Chỉ một vụ như vậy thôi, tiền ngân sách lẫn nhân lực đổ vào đủ khiến một đơn vị công gần như kiệt sức. Sau vụ này chúng tôi muốn phá sản luôn”, bà Lan nói.
Chồng chéo trong quản lý: “Mỗi bộ một kiểu, không ai chịu trách nhiệm chính”
Giám đốc Sở An toàn thực phẩm TP.HCM cho rằng, một trong những bất cập lớn nhất hiện nay là sự phân tán trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Chỉ riêng một mặt hàng thực phẩm có thể liên quan đến Bộ Y tế, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, trong khi mỗi bộ có một thông tư, quy chuẩn riêng.
“Luật thì có, nhưng văn bản dưới luật thì chồng chéo, thiếu nhất quán. Khi có sự cố xảy ra, ai cũng nói mình có trách nhiệm, nhưng không ai chịu trách nhiệm chính. Đó là thực trạng rất đáng lo ngại,” bà Lan chia sẻ.
TP.HCM là địa phương đầu tiên được Trung ương cho phép thí điểm mô hình Ban Quản lý An toàn thực phẩm – một cơ quan liên ngành để xử lý tình trạng phân tán nêu trên. Sau 7 năm hoạt động, mô hình này đã cho thấy hiệu quả tích cực, nhưng vẫn vấp phải không ít rào cản thể chế.
“Chúng tôi muốn nhân rộng mô hình này ra các tỉnh, nhưng lại không có hành lang pháp lý đầy đủ để thực hiện. Thậm chí, ngay tại TP.HCM, nhiều khi cũng bị ràng buộc bởi quy định do các bộ ngành ban hành mà không sát thực tiễn,” bà Lan nêu rõ.
Một thực tế đáng buồn được bà Lan chỉ ra là hệ thống quản lý an toàn thực phẩm hiện nay vẫn nặng về giấy tờ, thủ tục, trong khi việc giám sát thực chất còn lỏng lẻo.
“Cấp phép dễ, nhưng giám sát thì lại không hiệu quả. Nhiều cơ sở có đầy đủ giấy tờ, nhưng khi kiểm tra thì phát hiện sử dụng nguyên liệu bẩn, phụ gia không rõ nguồn gốc. Nếu không đổi mới cách làm, chúng ta chỉ dừng lại ở việc có hồ sơ, chứ không đảm bảo được chất lượng thực sự,” bà nhận định.
Bà Lan kiến nghị cần giảm thủ tục hành chính rườm rà, tăng cường kiểm tra đột xuất, hậu kiểm có trọng tâm, trọng điểm. Đặc biệt, cần minh bạch thông tin để người tiêu dùng có thể giám sát cùng cơ quan quản lý.
Ngoài thể chế, yếu tố ý thức của người dân và doanh nghiệp cũng là một vấn đề lớn. Bà Lan cho rằng, không thể kỳ vọng vào lực lượng quản lý mỏng mà kiểm soát hết hàng trăm ngàn cơ sở kinh doanh thực phẩm, nếu bản thân người sản xuất, kinh doanh không có đạo đức, và người tiêu dùng không thay đổi thói quen “rẻ là mua”.
“Chúng ta cần một xã hội có trách nhiệm. Người bán phải đặt đạo đức lên hàng đầu, người tiêu dùng phải thông minh, đừng mua đồ rẻ bất chấp chất lượng. Khi thị trường có yêu cầu cao, nhà sản xuất buộc phải thay đổi. Nếu không, cơ quan quản lý có mạnh đến đâu cũng không đủ sức chống chọi,” bà Lan nói.
Theo PGS.TS Phạm Khánh Phong Lan, đã đến lúc Việt Nam cần một cuộc cải cách thực chất về thể chế trong quản lý an toàn thực phẩm. Cần một đầu mối thống nhất, trao quyền mạnh hơn cho địa phương, giảm thủ tục và tăng giám sát thực tế. Đồng thời, cơ chế truy xuất nguồn gốc và công khai thông tin phải được coi là “trụ cột” để đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình.
“Nếu không cải cách thể chế, chúng ta mãi chỉ loay hoay dập lửa. Cứ hết ngộ độc này lại đến vụ việc khác, rồi lại điều tra, xử lý... nhưng gốc rễ vẫn không thay đổi. Cần mạnh dạn thay đổi từ luật pháp, tư duy quản lý cho đến văn hóa tiêu dùng. Đó mới là cách bảo vệ sức khỏe cộng đồng một cách bền vững,” bà Lan kết luận.
Minh Anh - nguoiquansat.vn
Theo Kiến thức đầu tư
Bình luận
0 Bình luận