Để thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, EVN đang nỗ lực tìm kiếm các nguồn lực xanh. Tập đoàn kiến nghị được tiếp cận trực tiếp các khoản vay ưu đãi quốc tế, qua đó tăng khả năng đầu tư vào năng lượng tái tạo, lưới điện thông minh và công nghệ tiết kiệm năng lượng.
Tại Hội thảo "Chuyển đổi năng lượng xanh nhìn từ Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị", ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) khẳng định trong bối cảnh hiện nay, EVN đã xác định rõ các định hướng chiến lược trong giai đoạn tới nhằm góp phần thực hiện mục tiêu quốc gia về giảm phát thải khí nhà kínhtrong hoạt động năng lượng từ 15–35% so với kịch bản phát triển thông thường đến năm 2030.

Đối với các nhà máy điện than đang vận hành, EVN đã và đang triển khai các giải pháp cải tạo, nâng cấp, ứng dụng công nghệ nâng cao hiệu suất, tích hợp hệ thống năng lượng tái tạo sử dụng trong nhà máy để giảm phát thải, đồng thời nghiên cứu các giải pháp/ phương án thực hiện và xây dựng lộ trình chuyển đổi nhiên liệu, kết hợp đốt trộn sinh khối, amoniac.
EVN đã triển khai thực hiện công tác truyền thông đồng bộ với hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng của toàn Tập đoàn. Trong đó, các nội dung, hình thức tuyên truyền trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, biến đổi khí hậu, giảm phát thải đã luôn được quan tâm, chú trọng.
Để triển khai hiệu quả Nghị quyết 70 và đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải 15–35% đến năm 2030, EVN đang và sẽ tập trung triển khai các nhóm giải pháp trọng tâm.
Thứ nhất là nhóm giải pháp phát triển nguồn điện. EVN ưu tiên phát triển các nguồn điện sạch, như nhà máy điện hạt nhân, ít phát thải nhằm giảm phụ thuộc vào than và đáp ứng mục tiêu tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo. Nghiên cứu áp dụng các giải pháp trong việc thay thế nguồn nhiên liệu hóa thạch bằng các loại nhiên liệu ít phát thải hơn như hydrogen xanh, ammonia xanh, biomass,... EVN đã tham gia một số dự án thí điểm để làm khung cho việc phát triển các nguồn điện mới.
EVN cũng hợp tác với một số nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc để tăng hiệu suất cho các giải pháp này.
Thứ hai là nhóm giải pháp về phát triển lưới điện. EVN nghiên cứu giải pháp nâng cao năng lực truyền tải của lưới điện để tận dụng tối đa huy động các nguồn điện sạch cho hệ thống; xây dựng hệ thống truyền tải thông minh giúp tối ưu trong vận hành lưới điện, giảm thiểu sự cố, giảm tổn hao, góp phần giảm phát thải khí nhà kính; tích hợp hệ thống tích trữ năng lượng; xây dựng hệ thống truyền tải liên kết các nước trong khu vực.
Với khối lượng lớn, tổng chi phí đầu tư mỗi năm 3-4 tỷ USD, EVN một mình không thể nào gánh vác được. Nghị quyết 70 cho phép sự tham gia của nhiều tổ chức, doanh nghiệp khác.
Hệ thống điện Việt Nam tương đối lớn, thứ nhất Đông Nam Á và thứ 22 trên thế giới, nên việc quản lý lưới điện thông minh là rất quan trọng.
Thứ ba là nhóm giải pháp về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và hợp tác quốc tế. EVN nghiên cứu giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt trong phát triển nguồn - lưới điện gắn với chuyển dịch năng lượng; xây dựng, nghiên cứu phát triển các mục tiêu về khoa học công nghệ phù hợp, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo trong công tác quản lý vận hành theo từng giai đoạn phù hợp với lộ trình chuyển dịch năng lượng; ưu tiên sử dụng các công nghệ, thiết bị hiện đại có định mức tiêu hao thấp hiệu suất cao, thân thiện với môi trường; ứng dụng công nghệ số, Big Data, AI… để giám sát, quản lý và tối ưu hoá quy trình sản xuất.
Thứ tư là nhóm giải pháp về tiết kiệm năng lượng và quản lý phát thải. Chỉ số tiêu thụ năng lượng trên đầu người, trên GDP ở Việt Nam đứng ở nửa sau thế giới, nên còn nhiều dư địa để tiết kiệm năng lượng.
EVN coi tiết kiệm năng lượng là mệnh lệnh thời đại, phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương, địa phương, báo chí. Tiếp tục triển khai sâu rộng chương trình tiết kiệm điện, áp dụng điều chỉnh phụ tải và áp dụng các giải pháp tiết kiệm năng lượng trong toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh; triển khai các chiến dịch tuyên truyền nâng cao nhận thức về chuyển đổi xanh; tiếp tục thực hiện các chương trình truyền thông, tuyên truyền về tiết kiệm điện.
EVN tham gia kiểm kê phát thải khí nhà kính đối với các cơ sở thuộc danh mục cơ sở phát thải khí nhà kính phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; nghiên cứu và triển khai thí điểm các giải pháp thu hồi và lưu giữ carbon; chuẩn bị các nguồn lực cần thiết để sẵn sàng tham gia thị trường giao dịch tín chỉ các-bon trong nước và quốc tế.
Thứ năm là nhóm giải pháp về phát triển nguồn nhân lực. EVN xây dựng yêu cầu về khung năng lực và chương trình phát triển nguồn nhân lực đáp ứng những yêu cầu mới về công nghệ, quản trị của Tập đoàn.
Tập đoàn phối hợp với các bộ ngành, đối tác quốc tế để đào tạo chuyên sâu, chuẩn bị vận hành dự án điện hạt nhân Ninh Thuận 1, trong đó có đối tác Rosatom (Nga).
Tập trung đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý và chuyên gia nòng cốt trong các lĩnh vực công nghệ năng lượng mới, vận hành lưới điện thông minh, quản lý dự án đầu tư trong lĩnh vực năng lượng sạch,… EVN có kinh nghiệm e-learning, được phát huy hiệu quả trong toàn Tập đoàn.
Thứ sáu là nhóm giải pháp về thể chế, chính sách và huy động vốn. EVN rà soát, nghiên cứu, xây dựng kế hoạch huy động vốn cho các dự án đầu tư theo chiến lược phát triển Tập đoàn, hợp tác huy động tối đa nguồn vốn của các tổ chức quốc tế đối với quản lý, đầu tư, vận hành phục vụ quá trình chuyển dịch năng lượng của EVN. Đề xuất các cơ chế chính sách tài chính, thu hút các nguồn vốn xanh, ưu đãi.
Tập đoàn đoàn huy động cho các dự án chiến lược, bao gồm JETP, triển khai tài chính xanh, thu hút vốn đầu tư từ các tổ chức tài chính để giảm áp lực đầu tư cho vốn Nhà nước.
Để EVN có thể triển khai hiệu quả Nghị quyết 70, EVN có một số đề xuất kiến nghị như sau:
Thứ nhất, đối với Chính phủ và các bộ ngành, EVN đề xuất sớm hoàn thiện các quy định, hướng dẫn, khung pháp lý và bộ tiêu chuẩn kỹ thuật cho các công nghệ năng lượng mới, như: điện gió ngoài khơi, lưu trữ năng lượng, công nghệ hydrogen, amoniac, biomass, thu hồi và lưu trữ carbon.
Hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường các-bon, đảm bảo đồng bộ với các quy định quốc tế. Ngoài ra, EVN được giao chủ trì một số dự án trọng điểm như điện gió ngoài khơi, thủy điện mở rộng, lưới truyền tải siêu cao áp.
Sớm triển khai nghiên cứu, quy hoạch và có cơ chế chính sách hỗ trợ đối với các vùng nhiên liệu biomass, chuỗi cung ứng nhiên liệu amoniac/ biomass… đáp ứng lộ trình chuyển đổi nhiên liệu sạch cho các nhà máy nhiệt điện đốt than theo định hướng của Chính phủ.
Ngoài ra, EVN được tiếp cận trực tiếp các nguồn vốn vay ưu đãi quốc tế, đồng thời có cơ chế bảo lãnh nhằm giảm áp lực vốn đầu tư.
Thứ hai, đối với các địa phương, EVN đề xuất các địa phương hỗ trợ quy hoạch không gian, bố trí quỹ đất cho phát triển nguồn và lưới điện, không phụ thuộc vào chủ đầu tư như EVN; phối hợp trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng.
Nghị quyết 70 là định hướng chiến lược quan trọng để Việt Nam vừa bảo đảm an ninh năng lượng, vừa thực hiện các cam kết giảm phát thải khí nhà kính. Với vai trò và nhiệm vụ được giao, EVN cam kết chủ động triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp, huy động tối đa các nguồn lực trong nước và quốc tế để góp phần thực hiện thành công mục tiêu giảm phát thải 15–35% đến năm 2030, hướng tới phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Khúc Văn - nguoiquansat.vn
Theo Kiến thức Đầu tư
Bình luận
0 Bình luận