Vĩ mô

Quy mô thị trường tài chính tương đương 82% GDP, vì sao chính sách tài khóa được đặt vào vai trò dẫn dắt tăng trưởng?

Năm 2025 có thể nói là năm mà chính sách tài khóa tiếp tục được mở rộng hơn, với mục tiêu đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao.

Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2025, Triển vọng 2026, Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung nhấn mạnh, trong bối cảnh kinh tế quốc tế nhiều biến động, Việt Nam vẫn duy trì được ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và đạt tăng trưởng tương đối cao.

e93fba4f4a06a358fa17.jpg.jpg
Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung phát biểu tại sự kiện.

Kết quả này gắn liền với việc Chính phủ triển khai đồng bộ các chính sách tài khóa hỗ trợ nền kinh tế, từ miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí đến ưu tiên nguồn lực cho các dự án, công trình quan trọng, các lĩnh vực an sinh xã hội và dân sinh.

Theo Thứ trưởng Đỗ Thành Trung, ngân sách Nhà nước vẫn bảo đảm chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, đồng thời duy trì tỷ lệ đầu tư toàn xã hội khoảng 32 - 33% GDP. Nguồn lực này được tập trung cho phát triển kết cấu hạ tầng chiến lược, hạ tầng kinh tế, xã hội, qua đó tạo môi trường đầu tư thuận lợi và lan tỏa các nguồn lực đầu tư khác. Cơ cấu đầu tư cho thấy, khu vực dân cư và doanh nghiệp trong nước chiếm trên 65% tổng vốn đầu tư xã hội, khu vực FDI đóng góp khoảng 16%, đưa Việt Nam vào nhóm 15 quốc gia thu hút FDI lớn nhất thế giới.

Song song với dòng vốn đầu tư, quy mô thị trường tài chính cũng tiếp tục mở rộng. Đến hết ngày 30/11, tổng quy mô thị trường tài chính ước đạt khoảng 390 tỷ USD, tương đương 82% GDP

Tuy nhiên, ông Đỗ Thành Trung cũng thẳng thắn nhìn nhận, mô hình tăng trưởng dựa nhiều vào vốn giá rẻ, lao động giá rẻ và gia công đang dần bộc lộ những giới hạn. Trong bối cảnh mục tiêu tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026–2030 được đặt ra với yêu cầu rất cao, tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần được mở rộng mạnh mẽ, đi kèm với sự thay đổi căn bản trong tư duy, hành động và cách thức phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn lực.

Theo quan điểm nhất quán của Đảng, nội lực là nền tảng chiến lược lâu dài, còn ngoại lực là nguồn lực quan trọng mang tính đột phá. Vì vậy, bên cạnh yêu cầu huy động đủ vốn, vấn đề cốt lõi là phân bổ đúng chỗ, sử dụng hiệu quả và tạo ra giá trị gia tăng cao hơn cho nền kinh tế.

Từ góc độ quản lý tài chính, ngân sách và thị trường vốn, Thứ trưởng Bộ Tài chính nhấn mạnh vai trò của chính sách tài khóa trong việc kiến tạo tăng trưởng, được điều hành chủ động, bền vững, có trọng tâm và trọng điểm. Ngân sách Nhà nước cần tập trung cho đầu tư phát triển, cho các lĩnh vực chiến lược như hạ tầng số, chuyển đổi xanh, đồng thời bảo đảm an toàn tài chính và kiểm soát nợ công.

Cùng với đó, thị trường vốn cần được phát triển trở thành trụ cột huy động nguồn lực trung và dài hạn, từng bước giảm sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, cần phát huy vai trò trong huy động và sử dụng nguồn lực, trong đó doanh nghiệp nhà nước tập trung vào các lĩnh vực then chốt, còn khu vực kinh tế tư nhân được tạo điều kiện thuận lợi hơn để trở thành động lực quan trọng của tăng trưởng.

Năm 2025 có thể nói là năm mà chính sách tài khóa tiếp tục được mở rộng hơn, với mục tiêu đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao. Các chính sách giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất… tiếp tục được thực hiện nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và người dân. Chính sách giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ… cũng tương tự. Thậm chí sau đề xuất của Bộ Tài chính, Chính phủ đã trình Quốc hội chấp thuận kéo dài thời hạn giảm thuế giá trị gia tăng đến hết năm 2026, mở rộng sang một số nhóm hàng hóa, dịch vụ khác.

Việc tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, cùng với cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh, được xác định là những giải pháp nền tảng để thu hút và giữ chân các nguồn lực tài chính dài hạn, chất lượng cao, phục vụ mục tiêu phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong giai đoạn tới.

Nếu chính sách tài khóa được kỳ vọng tạo nền tảng cho tăng trưởng dài hạn, thì tín dụng ngân hàng tiếp tục được xác định là kênh dẫn vốn chủ lực của nền kinh tế trong ngắn và trung hạn.

Cũng tại diễn đàn, bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước nhấn mạnh, trong thực tiễn điều hành, Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường chỉ đạo các tổ chức tín dụng kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Các giải pháp tín dụng theo ngành, lĩnh vực được triển khai quyết liệt, góp phần tăng khả năng tiếp cận vốn và phù hợp hơn với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh nhiều doanh nghiệp vẫn đối mặt với khó khăn về dòng tiền.

z7331652343577-dd71272c28ea08454acb9436a98f1ef120251216113211.jpg
Bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước

Theo bà Hà Thu Giang, Ngân hàng Nhà nước đã thường xuyên rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng và tín dụng ngành, lĩnh vực.

Cùng với hoàn thiện khuôn khổ chính sách, công tác chỉ đạo, điều hành tín dụng tiếp tục được tăng cường thông qua nhiều văn bản chỉ đạo, hội nghị và cuộc họp chuyên đề, yêu cầu các tổ chức tín dụng kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.

Đề cập các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, bà Hà Thu Giang cho biết, Ngân hàng Nhà nước đã tích cực triển khai chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ đối với khách hàng gặp khó khăn do các nguyên nhân khách quan như dịch bệnh, thiên tai hay khó khăn trong sản xuất, kinh doanh.

“Các giải pháp này đã tạo điều kiện cho khoảng 1,3 triệu khách hàng được cơ cấu nợ với giá trị nợ gốc và lãi xấp xỉ 1 triệu tỷ đồng”, bà Giang thông tin, đồng thời cho biết riêng trong giai đoạn dịch Covid-19, các tổ chức tín dụng đã giảm lãi cho khách hàng với tổng số tiền khoảng 50 nghìn tỷ đồng.

Bên cạnh đó, các chương trình tín dụng theo ngành, lĩnh vực tiếp tục được đẩy mạnh triển khai theo chỉ đạo của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.

Theo bà Hà Thu Giang, nhiều chương trình rất hiệu quả và được điều chỉnh tăng quy mô phù hợp với nhu cầu thực tiễn của nền kinh tế, trong đó có chương trình tín dụng đối với lĩnh vực nông, lâm, thủy sản hiện đạt quy mô 185 nghìn tỷ đồng (4 lần nâng quy mô) với tỷ lệ giải ngân khoảng 94%, hay chương trình cho vay liên kết lúa gạo theo Quyết định số 1490/QĐ-TTg đến cuối tháng 10/2025 doanh số giải ngân lũy kế đạt gần 3.000 tỷ đồng trong vòng 5 tháng.

Song song với tín dụng thương mại, các chương trình tín dụng chính sách thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội và các chương trình tín dụng thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia tiếp tục được triển khai hiệu quả. Theo bà Hà Thu Giang, đến nay dư nợ tín dụng chính sách đã đạt trên 398 nghìn tỷ đồng, hỗ trợ hơn 6,8 triệu người nghèo và các đối tượng chính sách khác, góp phần quan trọng vào mục tiêu giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội và ổn định kinh tế – xã hội.

Tuy vậy, những con số tích cực này cũng đi kèm không ít thách thức. Theo bà Hà Thu Giang, áp lực cung ứng vốn cho nền kinh tế tiếp tục ở mức cao khi thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thị trường chứng khoán chưa phát huy đầy đủ vai trò là kênh dẫn vốn trung và dài hạn. Nhu cầu vốn cho các dự án, công trình trọng điểm quốc gia rất lớn, trong khi nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng chủ yếu vẫn là tiền gửi ngắn hạn, chiếm khoảng 80% tổng tiền gửi của hệ thống, tạo áp lực lên cân đối vốn và quản trị rủi ro kỳ hạn.

Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước xác định tiếp tục điều hành tín dụng theo hướng linh hoạt, bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Đáng chú ý, Ngân hàng Nhà nước đang phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định về hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh vay vốn thực hiện các dự án xanh, tuần hoàn, áp dụng khung tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị.

Cùng với đó, dòng vốn tín dụng sẽ tiếp tục được định hướng vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, các động lực tăng trưởng và các dự án, công trình trọng điểm, khả thi.

Mai Anh - nguoiquansat.vn

Theo Kiến thức Đầu tư