Vĩ mô

Nếu đầu tư công giải ngân hiệu quả, nền kinh tế sẽ hút bao nhiêu vốn tín dụng mới?

Nếu đẩy mạnh giải ngân đầu tư công nửa cuối năm, đặc biệt ở các dự án hạ tầng xã hội và giao thông trọng điểm, thì mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15–16% năm 2025 không chỉ trong tầm tay mà còn là điều kiện bắt buộc để kích hoạt làn sóng phục hồi kinh tế.

Tăng trưởng tín dụng 16% không chỉ khả thi mà là cần thiết

Phát biểu tại Hội thảo "Triển vọng ngân hàng Việt Nam: Xếp hạng tín nhiệm và con đường hướng tới phát triển bền vững", ngày 11/6, TS. Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA), nhấn mạnh: “Việc đẩy mạnh đầu tư công, đặc biệt vào các công trình hạ tầng xã hội, không chỉ tạo lực cầu cho nền kinh tế mà còn khơi thông dòng chảy tín dụng vào các lĩnh vực then chốt như xây dựng, sản xuất hay tiêu dùng”.

Theo ông Hùng, bức tranh kinh tế đang chuyển biến rõ nét về cả chính sách và hành động. Từ trung ương đến địa phương, từ cơ quan quản lý đến doanh nghiệp đều đang chuẩn bị bước vào giai đoạn phát triển mới.

“Cơ hội rất lớn đang mở ra. Nhưng để hiện thực hóa, nhu cầu về vốn là tất yếu. Đây chính là lúc các tổ chức tín dụng thể hiện vai trò chủ động, đồng hành cùng tăng trưởng kinh tế”, ông Hùng nói.

Nếu đầu tư công giải ngân hiệu quả, nền kinh tế sẽ hút bao nhiêu vốn tín dụng mới?

Nếu giải ngân đầu tư công được thực hiện tốt, mục tiêu tăng trưởng tín dụng từ 15–16% trong năm 2025 hoàn toàn khả thi.

Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tích cực, đại diện VNBA cũng thẳng thắn chỉ ra các thách thức đang và sẽ tác động đến hoạt động tín dụng, cụ thể là việc chuyển đổi đơn vị hành chính tại các đô thị lớn như Hà Nội và TP.HCM. Ngoài ra, ông Hùng cảnh báo rủi ro từ chính sách thương mại quốc tế, đặc biệt là các biện pháp thuế quan khó đoán định từ thị trường Mỹ vốn là đối tác xuất khẩu lớn của Việt Nam. "Nếu các doanh nghiệp xuất khẩu bị siết thị trường, ngân hàng cũng sẽ chịu ảnh hưởng dây chuyền".

Nợ xấu cũng tiếp tục là thách thức lớn. Theo thống kê sơ bộ, tổng nợ xấu (gồm nợ nội bảng, nợ bán cho VAMC và nợ tiềm ẩn) hiện đã vượt 5% tổng dư nợ toàn hệ thống. Trước những rủi ro tiềm ẩn, ông Hùng cho rằng các ngân hàng phải thay đổi tư duy: “Chúng ta không thể chờ rủi ro xảy ra mới ứng phó. Ngay từ khâu đầu tư tín dụng, tức là từ việc lựa chọn khách hàng, sàng lọc dự án đã phải có bộ lọc kỹ càng, minh bạch. Nếu không, đầu tư không hiệu quả, chính ngân hàng sẽ là bên phải trả giá”.

Theo ông, trong bối cảnh mới, khái niệm xếp hạng tín nhiệm phải được hiểu rộng hơn, không chỉ với doanh nghiệp mà cả với các tổ chức tín dụng. “Chúng ta cần biết mình đang ở đâu, rủi ro ra sao, năng lực đến mức nào. Và điều đó cần được đo lường một cách chuẩn mực, khách quan, minh bạch”, ông Hùng nhấn mạnh.

Từ thực tiễn và phân tích, ông Hùng nhận định nếu giải ngân đầu tư công đạt tiến độ, đặc biệt là trong quý III và IV/2025, thì mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15–16% trong cả năm không chỉ khả thi, mà còn là kịch bản cần thiết để kích hoạt phục hồi toàn diện nền kinh tế.

“Đầu tư công chỉ phát huy vai trò vốn mồi khi dòng vốn tư nhân, đặc biệt là tín dụng ngân hàng được dẫn dắt đúng hướng, đúng nơi và đúng thời điểm”, ông Hùng kết luận.

Tín hiệu từ thị trường: Cầu vốn đang chờ lực đẩy

Mới đây, tại Hội thảo trực tuyến do CTCP Chứng khoán TP.HCM (HSC), các chuyên gia nhấn mạnh, hiệu ứng từ đầu tư công không còn giới hạn trong phạm vi các nhà thầu hay ngành xây dựng, mà đang lan tỏa theo cấp số nhân sang nhiều lĩnh vực khác: Từ sản xuất vật liệu, logistics, vận tải, đến bất động sản khu công nghiệp, bán lẻ, nông sản, du lịch… Khi các dự án hạ tầng trọng điểm như đường cao tốc, cảng biển, đường sắt được triển khai đồng bộ, giá trị tài sản ở những vùng hưởng lợi từ hạ tầng cũng gia tăng, kéo theo nhu cầu tín dụng để mở rộng đầu tư, sản xuất và tiêu dùng


Nếu đầu tư công giải ngân hiệu quả, nền kinh tế sẽ hút bao nhiêu vốn tín dụng mới?
Đây là thời điểm vàng để tạo cơ chế chính sách khuyến khích đúng và trúng kích hoạt khu vực tư nhân và dòng tín dụng đi đúng hướng.

Thực tế cho thấy, mỗi đồng đầu tư công hiệu quả có thể dẫn dắt từ 3 đến 5 đồng vốn đầu tư tư nhân hoặc vốn vay ngân hàng. Khi hạ tầng được cải thiện, chi phí logistics giảm, kết nối vùng miền tốt hơn, các doanh nghiệp tư nhân có nhiều cơ hội đầu tư mở rộng nhà xưởng, kho bãi, nâng cấp dây chuyền sản xuất... tất cả đều cần đến nguồn vốn tín dụng lớn. Chưa kể, việc giá trị bất động sản tại các vùng có hạ tầng đồng bộ tăng lên cũng giúp doanh nghiệp và người dân có thêm tài sản đảm bảo để vay vốn.

Các ngân hàng thương mại vốn đang trong trạng thái thận trọng cho vay sẽ có thêm động lực mở rộng tín dụng khi nhận thấy các dự án kinh doanh có tiềm năng sinh lời tốt, rủi ro thấp hơn nhờ đòn bẩy hạ tầng. Ngược lại, nếu đầu tư công chậm giải ngân hoặc dàn trải kém hiệu quả, sẽ không tạo được cú hích đủ lớn để kéo theo các dòng vốn xã hội.

Đáng chú ý, với dư địa tài khóa còn khá lớn, Việt Nam có đủ điều kiện để đẩy nhanh đầu tư công trong giai đoạn tới mà không làm gia tăng áp lực lên lạm phát hay nợ công. Đây là thời điểm vàng để tạo cơ chế chính sách khuyến khích đúng và trúng – kích hoạt khu vực tư nhân và dòng tín dụng đi đúng hướng.

Một trong những điểm sáng của đầu tư công hiện nay chính là sự chủ động nhập cuộc từ doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt trong các dự án hạ tầng quy mô lớn như đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam. Việc Quốc hội thống nhất chủ trương đầu tư tuyến đường sắt này theo hình thức sử dụng ngân sách kết hợp với các nguồn vốn hợp pháp khác đang mở ra dư địa mới cho mô hình hợp tác công tư (PPP) thực chất, hiệu quả. Tất nhiên, để hiện thực hóa điều này, Nhà nước cần cải cách mạnh về thể chế, thủ tục đầu tư, tính minh bạch và khả năng dự báo chính sách, tạo niềm tin và môi trường đầu tư thuận lợi.

Trong khi nhu cầu tín dụng trung, dài hạn của doanh nghiệp hiện vẫn rất lớn, tổng phương tiện thanh toán và tín dụng chưa tăng mạnh do thiếu “cú hích niềm tin”. Nếu đầu tư công được giải ngân đúng tiến độ và trúng đích, các ngân hàng sẽ có thêm lý do để giải ngân các khoản vay dài hạn vào các dự án sản xuất, kinh doanh có kết nối hạ tầng, thay vì dồn vốn vào bất động sản hay tiêu dùng ngắn hạn.

Các chuyên gia dự báo, nếu đầu tư công đạt tỷ lệ giải ngân trên 95% trong năm 2025, tương đương quy mô khoảng 800.000 – 900.000 tỷ đồng, thì toàn nền kinh tế có thể hút thêm từ 1,5 đến 2 triệu tỷ đồng vốn tín dụng mới trong chu kỳ kế tiếp. Đây sẽ là động lực quan trọng để phục hồi và tăng trưởng kinh tế trong trung dài hạn.

Câu chuyện hiện tại không còn là đầu tư công có kéo được tín dụng hay không, mà là cách thiết kế và điều phối chính sách giữa các bên để tạo nên một làn sóng phát triển đồng bộ, lan tỏa và bền vững. Một khi khu vực tư nhân được khơi thông bằng niềm tin, thể chế minh bạch và động lực đầu tư rõ ràng, dòng vốn tín dụng sẽ tự động tìm đến những nơi có hiệu quả, góp phần gia tăng nội lực, sức chống chịu và độ mở của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn mới.

Hồng Gấm - nguoiquansat.vn

Theo Kiến thức đầu tư